(Dân trí) - UB Thường vụ Quốc hội mới đây kết thúc cuộc giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri về khó khăn trong sản xuất và đời sống của ngư dân - một vấn đề mà cử tri quan tâm, nhiều lần gửi kiến nghị đến Quốc hội…
Kết quả đoàn giám sát của UB Thường vụ Quốc hội ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực từ phía cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực. Theo đó, các chính sách ban hành và triển khai của nhà nước thời gian qua đã góp phần phát triển ngành khai thác hải sản với khoảng 128 nghìn tàu cá các loại.
Nhà nước đã đầu tư xây dựng được 65/178 cảng, bến cá trên tuyến bờ và 18/33 cảng cá trên các tuyến đảo; 75/131 khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá các tỉnh ven biển và 12/16 khu trên các tuyến đảo.
Tỷ lệ lớn tàu cá của ngư dân Việt Nam vẫn chỉ để đánh bắt ven bờ.
Cơ quan chức năng đã hỗ trợ ngư dân đóng mới 1.365 tàu có công suất 90CV trở lên với số tiền khoảng 1.300 tỷ đồng; đã lắp đặt 7.000 máy thu trực canh cho ngư dân; triển khai việc hỗ trợ gắn thiết bị (chíp) cho 3.000 tàu cá để thu phát tín hiệu từ vệ tinh. Tính đến cuối tháng 6/2013, cả nước đã lắp đặt được thiết bị kết nối vệ tinh cho 1.150 tàu cá.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động đánh bắt xa bờ, các địa phương đã tổ chức đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên cho ngư dân đi biển. Nhà nước cũng tăng cường hỗ trợ tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, hỗ trợ thiệt hại đối với các phương tiện sản xuất bị mất, bị hư hỏng nặng; cung cấp điện, nước ngọt, kho trữ dầu với giá bán bằng giá ở đất liền tại một số vùng ven biển, hải đảo…
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách để giải quyết khó khăn cho ngư dân vẫn còn không ít điểm bế tắc khó gỡ. UB Thường vụ QH trăn trở khi quy hoạch, phát triển tàu thuyền chưa phù hợp thực tế. Phương tiện khai thác ven bờ vẫn chiếm tỷ lệ lớn (như Cà Mau, loại phương tiện này chiếm đến hơn 65%), làm cho nguồn lợi hải sản vùng ven bờ đã và đang bị suy giảm mạnh; tình trạng khai thác bằng chất nổ, xung điện, hóa chất độc hại vẫn còn xảy ra ở hầu hết các tỉnh ven biển.
Hạn chế này là do các chính sách hỗ trợ chưa phù hợp với điều kiện kinh tế của ngư dân. Người dân khó tiếp cận được với gói hỗ trợ mua mới, đóng mới tàu, thay máy tàu. Điều kiện cho vay theo cơ chế cho vay thương mại ít ngư dân chấp nhận được. Trình tự, thủ tục để được hỗ trợ còn bất cập. Định mức hỗ trợ dầu chưa phù hợp với mức tiêu hao nhiên liệu giữa tàu công suất lớn và tàu công suất nhỏ...
Việc tổ chức triển khai xây dựng các khu neo đậu, tránh trú bão chưa đồng bộ; đầu tư dự án còn dàn trải; chưa có các tiêu chuẩn ngành về các khu neo đậu tránh trú bão; chưa nghiên cứu tận dụng tối đa địa hình, điều kiện tự nhiên để xây dựng. Các cơ sở đóng tàu, sửa tàu cá còn manh mún, quy mô nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và yếu, chủ yếu đóng tàu nhỏ, vỏ gỗ theo mẫu và kinh nghiệm dân gian.
Công tác bảo quản, chế biến sản phẩm khai thác chưa được coi trọng, hiện nay việc bảo quản sản phẩm vẫn chủ yếu theo phương thức thủ công nên ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ.
Công tác đào tạo nghề còn nhiều hạn chế, trình độ ngư dân đi biển còn thấp, khoảng 8,4% mù chữ, trên 50% mới tốt nghiệp tiểu học. Phần lớn lao động khai thác hải sản không được chủ tàu ký kết hợp đồng bằng văn bản, chỉ thoả thuận miệng, nên tình trạng quản lý, sử dụng lao động không ổn định, thiếu hụt, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
P.Thảo