Người Việt đã di cư đến Thái Lan từ nhiều thế kỷ. Nói chung, họ được đón tiếp tử tế và được khuyến khích dùng sở trường của mình để có thu nhập. Tuy vậy, những người đến vào khoảng năm 1945 lại bị kỳ thị và gặp khó khăn đáng kể suốt đời. Đáng tiếc, câu chuyện về họ không hẳn được biết đến nhiều vì nhiều người đã sống bí mật ở Thái Lan. Tôi lần đầu tiên làm nghiên cứu thực địa bằng việc phỏng vấn một số người nhập cư và con cháu họ, cùng một cựu sinh viên người Việt, vào năm 2005 – đúng 60 năm sau 1945, một điểm nhấn có thể cần được đánh dấu. Trong bài viết này, tôi sẽ cung cấp một vài thông tin về những gì chúng tôi tìm thấy. Lý do nhập cư Vào cuối Thế chiến Hai, nhiều người dân ở Đông Nam Á hy vọng giai đoạn thực dân kéo dài làm họ đau khổ sẽ đến hồi chấm dứt. Nhưng cố gắng của nhà nước Pháp nhằm tái lập Đông Dương thuộc Pháp là đòn giáng mạnh. Hàng ngàn người tìm cách trốn chạy chiến tranh, hoặc kéo về miền Nam Trung Hoa, hoặc đi theo sông Mekong vào Thái Lan. Nhiều người muốn quay lại chiến đấu cho tự do và họ đã nhiều lần bí mật qua lại dòng sông Mekong. Những người khác thì tái lập cuộc sống mới ở đất nước mới. Người Thái suốt nhiều thế kỷ đã chào đón người Việt vào nước họ. Thế hệ mới này – được gọi là Yuon Op Pha Yop – nói chung cũng được dân chúng đón tiếp như vậy, mặc dù chính quyền, đặc biệt giới chức quân sự, thì có thái độ khác. Trong một thời gian ngắn, Thủ tướng Thái, Dr Pridi Banomyong, người có quan hệ tốt với Hồ Chí Minh, đem lại môi trường thân thiện cho người tị nạn Việt. Nhưng không may, Dr Pridi bị lật đổ năm 1947, bị thay bằng một chính thể ủng hộ quyền lợi của Mỹ và vì thế sau đó, miễn cưỡng tạm dung người Việt. Hàng ngàn người Thái có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản và tham gia chuẩn bị cho cách mạng suốt 30 năm tiếp theo. Lo ngại xảy ra một cuộc cách mạng, chính quyền Thái ra luật khắt khe cấm chủ nghĩa cộng sản, tự do lập hội, tự do ngôn luận, tiến hành thiết quân luật dọc đường biên giới phía đông của Thái. Nhiều điều trong các đạo luật đó đến nay vẫn còn tồn tại. Với sự hợp tác của quân Mỹ, đường xá, sân bay được xây dựng nối vùng đông bắc Isaan với Bangkok để quân đội có thể di chuyển nhanh chóng trên toàn quốc và kiểm soát các vùng xa xôi, bao gồm những tỉnh có người Việt sinh sống. Quy định được lập ra bắt buộc người Việt đăng ký ở một tỉnh nhất định và không được đi đến các vùng khác của vương quốc. Người Việt không được có vị trí chính thức, không được học trường công và không được nói tiếng Việt. Tại vùng Isaan dọc sông Mekong và ở vùng biên giới phía đông giáp ranh Campuchia, hàng ngàn người Việt đăng ký sống ở đó, và hầu hết vẫn ở lại cho đến hôm nay. Những vùng này khi đó còn heo hút, và bị an ninh Thái xem là nơi trú ẩn của cộng sản nước ngoài và người Thái có xu hướng lật đổ. Các chiến dịch đàn áp nặng tay diễn ra và đa số dân đều hứng chịu nghi ngờ. Cuộc đời bí mật
Có lẽ vấn đề chính lâu dài cho người nhập cư Việt là giáo dục cho con cái. Những người sinh ra ở Thái đa số vẫn không được phép đến trường hay vào đại học. Một cách đi vòng là họ đành bỏ con cho những gia đình Thái – Việt đã có hộ khẩu chính thức nuôi dưỡng. Để học tiếng và truyền thống Việt, trẻ em cần phải đi vào các ngôi nhà một cách lén lút. Một số cha mẹ không thể chấp nhận rủi ro đó và vì vậy, con họ không nói được tiếng Việt, cũng không có mấy liên hệ với quê nhà. Tiếng Việt chỉ được nói bên trong gia đình một cách bí mật. Cho mãi đến thập niên 1970, Việt Nam và Thái Lan mới có quan hệ ngoại giao, và vì thế không có sự hỗ trợ chính thức nào cho người nhập cư. Các hội đoàn phi chính thức được thành lập để truyền tin và giúp dạy nghề. Những người tôi gặp kể ra nhiều lĩnh vực mà họ cho là người Việt có thể có việc làm. Ví dụ nghề sửa xe máy, máy lạnh, và họ nói tại nhiều thị trấn ở Thái Lan, người Việt vẫn còn nắm giữ những dịch vụ này. Hiện tại Quan hệ ngoại giao Việt – Thái năm 1976 đã giúp quản lý vị thế pháp lý của người nhập cư, mặc dù chuyện này vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa. Việc cả hai nước đều là thành viên Asean đem lại thêm một diễn đàn đối thoại. Tuy vậy, vẫn chưa thấy có viễn cảnh về một thỏa thuận lao động giữa hai nước và quan hệ vẫn lắt léo vì những vụ như âm mưu đánh bom Sứ quán Việt Nam ở Bangkok năm 2001. Vấn đề chính giữa hai nước vẫn là việc đa số người Việt ở Thái Lan chưa có địa vị pháp lý chính thức. Quá nhiều người buộc phải trốn tránh trong gần 60 năm, nên không lạ là nhiều người không dám cho biết sự có mặt của họ vì sợ trừng phạt. Dẫu vậy, Sứ quán Việt Nam tỏ ra lạc quan về tương lại. Khi nào có đủ nhiều các trường hợp tích cực, người ta hy vọng tin tức sẽ lan truyền ra cho cộng đồng. Một số nhỏ doanh nghiệp Việt Nam muốn làm ăn ở Thái Lan, nhưng vẫn ở tầm mức nhỏ. Đa số đầu tư hải ngoại của Việt Nam đang nhắm vào Lào. Còn đầu tư của người Thái ở Việt Nam không thật quan trọng so với tổng mức đầu tư hải ngoại của các công ty Thái, nhưng nó vẫn còn nhiều hơn là mức đầu tư của Việt Nam tại đây. Vị trí đặc biệt Thế hệ người nhập cư Việt Nam 1945 có vị trí đặc biệt trong lịch sử Đông Nam Á. Sự đau khổ lặng thầm của họ suốt nhiều thập niên nêu bật tổn phí con người từ các ý thức hệ cạnh tranh cấp nhà nước. Một khi các chính quyền có hình thức đối thoại và hợp tác mới, rủi ro mà những người khác gặp vấn đề tương tự sẽ giảm đi. Mặc dù sẽ chẳng bao giờ có đền bù cho những người đã chịu khổ, nhưng sẽ thật bất công nếu câu chuyện của họ không được biết đến rộng rãi hơn. Vào năm 2015, dự kiến sẽ ra đời Cộng đồng Kinh tế Asean, trên lý thuyết sẽ cho phép người dân Đông Nam Á dễ dàng tìm việc ở các nước khác. Cho dù có lý do để chưa biết mọi sự có diễn ra như kế hoạch, nhưng đây cũng là cơ hội cho những người nhập cư lâu năm tìm lại liên lạc với người thân và cộng đồng, nếu họ muốn. Đây sẽ là cơ hội được một số người hoan nghênh, mặc dù có lẽ sẽ có một số người Việt nhập cư đã phải phủ nhận lịch sử của mình quá lâu và nay sẽ không muốn quay lại nữa. Tiến sĩ John Walsh đang dạy ở Đại học Shinawatra thuộc tỉnh Pathumthani của Thái Lan. |
Báo Úc tiếp tục đưa tin về vụ in tiền polymer của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với chi tiết mới nói người môi giới Lương Ngọc Anh là đại tá ngành an ninh.
Tờ The Age tiếp tục loạt bài về cáo buộc tham nhũng liên quan các quan chức cao cấp ngành ngân hàng, trong đó có cựu Thống đốc Lê Đức Thúy, với bài mới ra hôm thứ Hai 04/07/2011 dưới tựa đề 'Bê bối hối lộ vươn ra tới một đại tá tình báo'.
Trong bài báo, hai phóng viên Nick McKenzie và Richard Baker nói ông Lương Ngọc Anh, Tổng Giám đốc công ty TNHH Phát triển Công nghệ CFTD vốn đóng vai trò trung gian trong việc công ty Securency in tiền polymer cho Việt Nam, là nhân viên tình báo, cấp bậc đại tá.
Trước đó, The Age đã cáo giác ông Lương Ngọc Anh là người của cơ quan an ninh Việt Nam, nhưng chưa rõ cấp bậc.
Nay các phóng viên cho hay quan chức thương mại Australia đã tiếp xúc với ông tổng cộng 18 lần trước khi giới thiệu ông cho công ty Securency, chuyên cung cấp giấy và dịch vụ in tiền polymer.
Vụ cáo buộc công ty này, trực thuộc Ngân hàng dự trữ Úc (RBA), hối lộ quan chức ngân hàng các nước trong đó có Việt Nam vẫn đang được điều tra và các quan chức nói đây là vụ điều tra hối lộ lớn nhất nước từ trước tới nay.
Báo The Age cũng tiết lộ rằng cảnh sát liên bang đã điều tra một đại diện thương mại của Úc, hiện còn đương chức ở châu Á, trong vụ này.
Hai hôm trước, ngày 02/07, cũng tờ The Age đã nêu đích danh tên của cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy trong một danh sách ba quan chức nước ngoài mà Securency đã 'mua chuộc' được bằng 'tiền hoa hồng'.
Tờ báo có trụ sở tại Melbourne đưa ra chi tiết về vị quan chức Việt Nam: "Cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy, một trong những quan chức giàu quyền lực nhất của đất nước và là người mà Securency bị cáo buộc đã hối lộ vào năm 2003 bằng việc trả các học phí cho con trai ông này du học tại Đại học Durham, Anh."
Vai trò chủ chốt
The Age nói 'vị đại tá' Lương Ngọc Anh hiện vẫn chưa bị chính quyền Việt Nam thẩm vấn. Tờ báo này còn nhận xét rằng nhà chức trách Việt Nam vẫn "từ chối hỗ trợ phía Úc trong cuộc điều tra toàn cầu".
Các cựu quan chức thương mại và ngoại giao Australia đã xác nhận một cách riêng tư rằng nhân vật môi giới của Securency Lương Ngọc Anh là đại tá ngành an ninh và điều này đã được Đại sứ quán Úc ở Hà Nội biết từ khi cơ quan đại diện thương mại Austrade giới thiệu ông ta và công ty CFTD của ông làm trung gian vào năm 2002.
The Age
Báo này viết: "Các cựu quan chức thương mại và ngoại giao Australia đã xác nhận một cách riêng tư rằng nhân vật môi giới của Securency Lương Ngọc Anh là đại tá ngành an ninh và điều này đã được Đại sứ quán Úc ở Hà Nội biết từ khi cơ quan đại diện thương mại Austrade giới thiệu ông ta và công ty CFTD của ông làm trung gian vào năm 2002".
Theo luật Úc, việc công ty nước này thuê quan chức nước ngoài làm môi giới có trả tiền bị coi là trái phép. Thêm vào đó, Securency còn bị cáo buộc đã chuyển cho 'đại tá Lương Ngọc Anh' tới 20 triệu đôla Úc, đa số đó là để hối lộ.
Đổi lại, ông Anh đã giúp Securency thắng hợp đồng khổng lồ in tiền polymer cho Việt Nam.
Trong bài báo mới ra, The Age không nhắc tới chi tiết mà cũng chính báo này cáo giác trước đó, rằng ông Lương Ngọc Anh "có quan hệ thân cận với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ hồi ông Dũng còn giữ chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và quan hệ làm ăn với Securency bắt đầu".
Ông Lương Ngọc Anh từng được báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ca tụng như một tấm gương doanh nhân thành đạt.
Ông bị cáo buộc đã sử dụng một phần trong số tiền môi giới để trả học phí cho con trai của ông Lê Đức Thúy.
Các chi tiết mới được The Age tung ra là: vào tháng 11/1999, 'đại tá Lương Ngọc Anh' được mời tới Australia tham dự hội thảo của Austrade về thị trường Việt Nam.
Tháng 8/2008, ông đã là đại biểu của một ủy ban hợp tác Kinh tế-Thương mại Việt-Úc, nhiều lần tham dự họp hành chiêu đãi với sứ quán nước này.
Tài liệu nội bộ Austrade từ 1998 trở đi còn nói ông Anh có "quan hệ gia đình ở một số bộ ngành quan trọng". Cha ông được cho là có quan hệ rộng và bố vợ ông là quan chức công an cao cấp.
Các cơ quan công quyền Việt Nam hiện chưa có phản ứng gì trước các thông tin đưa ra ở trên.
Vụ tai tiếng hối lộ của công ty Securency với các quan chức Việt Nam và nước ngoài trong các thương vụ hoa hồng in tiền Polymer giai đoạn từ 1999 tới 2005 đã bị tờ The Age phát giác từ tháng 5/2009.
Các phát giác gây tác động lớn tại Úc và đã kéo các cơ quan điều tra, an ninh và tư pháp của nước này vào cuộc.
Báo The Age cho biết phóng sự điều tra của báo đã được cảnh sát sử dụng cho cuộc điều tra liên quốc gia. Chính quyền Indonesia và Malaysia miễn cưỡng hợp tác với cuộc điều tra, trong khi Việt Nam thì từ chối.
Ông Lê Đức Thúy làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong 8 năm, từ năm 1999. Người tiền nhiệm của ông là đương kim Thủ tướng VN, ông Nguyễn Tấn Dũng.
Sau khi ông Thúy thôi chức Thống đốc, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ nhiệm ông, từ tháng 3/2008 tới 05/2011 làm Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.