Ý đồ độc chiếm biển Đông và luận điệu phi lý của Trung Quốc lộ rõ từ lịch sử hành chính Hải Nam đến việc thành lập “TP.Tam Sa”.
Trước thông tin Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập cái gọi là “TP.Tam Sa” với phạm vi quản lý bao gồm 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam, ngày 21.6.2012, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ quyết định này. Chủ tịch TP.Đà Nẵng và Chủ tịch tỉnh Khánh Hòa cũng nhấn mạnh: “Quyết định này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị pháp lý”.
Chúng ta cùng xem xét xâu chuỗi từ lịch sử quá trình quản lý đảo Hải Nam với các sự kiện thành lập tỉnh Hải Nam (ngày 13.4.1988), thành lập đô thị cấp huyện thuộc tỉnh Hải Nam lấy tên là Tam Sa quản lý Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam (tháng 11.2007) đến quyết định phê chuẩn lập TP.Tam Sa vừa qua. Bình thường, việc thành lập một tỉnh, thành phố thuộc thẩm quyền và là công việc nội bộ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc thành lập tỉnh Hải Nam hay TP.Tam Sa bao gồm cả lãnh thổ nước láng giềng thì không còn là công việc nội bộ của Trung Quốc nữa, mà là một việc làm bất hợp pháp, vi phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước khác.
Biên giới chỉ đến Hải Nam
Cho đến đời tiền Hán (206 - 8 trước CN), đảo Hải Nam do người Lê (hay Ly), một tộc Việt trong Bách Việt, làm chủ nhưng bị người Trung Quốc ở Quảng Đông chinh phục. Đây có thể coi là bước đầu tiên tiến xuống biển Đông của các triều đại Trung Quốc. Các chính quyền kế tiếp nhau liên tục đưa người Hoa đến định cư ở vùng ven bờ đảo Hải Nam, dồn người Lê (hay Ly) vào vùng rừng núi ở sâu bên trong đảo. Các bộ lạc người Lê không cam chịu cảnh áp bức bóc lột, vùng lên khởi nghĩa nhưng bị đàn áp dữ dội nên đều thất bại. Một điều đáng chú ý là ở đảo Hải Nam có dân Lê (Ly) thì ở Thanh Hóa có dân Ly. Giữa người Lê (Ly) của đảo Hải Nam và Thanh Hóa chắc có sự giao thân. Vì vậy, năm 1905, ông E.Brerault khảo sát đảo Hải Nam thấy có “người Việt ở bờ biển phía nam đảo Hải Nam”. Đó chính là người Lê (Ly) ở ven biển.
|
|
Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ” xuất bản năm 1894, “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản 1905, tái bản 1910 thể hiện rõ ràng điểm cực nam của Trung Quốc ở bờ nam đảo Hải Nam, và cuốn Trung Quốc địa lý giáo khoa thư xuất bản 1906 ghi rõ: Điểm cực nam Trung Quốc là Châu Nhai, Quỳnh Châu (tức Hải Nam)
|
|
|
Ngoài các chính sách bóc lột hà khắc về mặt kinh tế, chính quyền phong kiến Trung Quốc vẫn dùng phương pháp chia để trị. Họ chia nhỏ các bộ lạc người Lê, bắt sống rải rác xen kẽ với các bộ lạc người Mông di cư từ tây nam Trung Quốc đến sau này. Trong vòng 19 thế kỷ tiếp theo, các chính quyền phong kiến Trung Quốc tiếp tục cho di dân đến và áp dụng chính sách đồng hóa để biến Hải Nam thành lãnh thổ của mình.
Từ thời Đường (618 - 906) đến năm 1909, Hải Nam vẫn bị coi là vùng biên giới “lam sơn chướng khí” và dùng làm nơi đày ải tù chính trị. Người bị đi đày nổi tiếng nhất ở đây có lẽ là nhà thơ Tô Đông Pha (1036-1101).
Sự cách biệt với nền văn hóa lục địa Trung Quốc, nạn cướp biển ven bờ, bệnh sốt rét ác tính cùng với sự nổi dậy thường xuyên của các bộ lạc bản xứ đã ngăn cản chính quyền Trung Quốc đưa người Hoa đến đây định cư với quy mô lớn. Hơn nữa, khí hậu nhiệt đới khác xa với đại lục, không thích hợp với kinh tế của người Hoa cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế trên đảo chậm phát triển và người Hoa không muốn định cư ở đây. Những nguyên nhân khách quan này cản trở chính sách tiến xuống biển Đông của các triều đại Trung Quốc. Vì vậy, đến những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các chính quyền Trung Quốc đều coi lãnh thổ của mình chỉ bao gồm từ đảo Hải Nam trở lên phía bắc.
Đã có nhiều sự kiện, bằng chứng được ghi nhận trong sách vở Trung Quốc và Việt Nam chứng tỏ cương giới cực nam của Trung Quốc đến đầu thế kỷ 20 chỉ ở bờ biển phía nam đảo Hải Nam. Các quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Trong thời gian đó, nhà nước phong kiến Việt Nam đã làm chủ thực sự và tổ chức đội Hoàng Sa đi khai thác 2 quần đảo của mình.
Bản đồ của Trung Quốc đến đầu thế kỷ 20 chỉ vẽ lãnh thổ đến đảo Hải Nam - Ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ xuất bản năm 1894 với đảo nhỏ phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN) - Nguồn: Biengioilanhtho.gov.vn
|
Tham vọng và mưu đồ
Từ năm 1909, Trung Quốc mới bộc lộ tham vọng trên biển Đông. Theo lệnh Phó vương Lưỡng Quảng, Đô đốc Lý Chuẩn đem một số pháo thuyền nhỏ đến một vài đảo của Hoàng Sa, bắn vài phát súng rồi vội vã rút lui dù khi đó quần đảo này đã có chủ. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu có những hành động tranh chấp chủ quyền đối với 2 quần đảo trên biển Đông của Việt Nam.
Năm 1932, Trung Quốc chính thức nêu yêu sách tiến xuống phía nam tới quần đảo Hoàng Sa. Trong Công hàm 29.9.1932 của đại diện Trung Quốc tại Paris gửi chính phủ Pháp chỉ nêu yêu sách quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa): “Tây Sa là bộ phận lãnh thổ cực nam của Trung Quốc”. Với công hàm này, Trung Quốc chưa hề yêu sách đối với Trường Sa. Những dữ kiện nói trên càng chứng tỏ lập luận Trung Quốc có “chủ quyền từ lâu đời” trên 2 quần đảo là không có cơ sở. Tiếp đó, họ chưa làm thêm được gì thì đảo Hải Nam bị quân đội Nhật chiếm đóng từ 1939 đến năm 1945.
Tháng 4.1950, phe Tưởng Giới Thạch phải từ bỏ Hải Nam. Từ đó, nơi đây được xem là một bàn đạp quan trọng trong chiến lược xâm chiếm biển Đông, vốn được đẩy lên mức hơn hẳn các chế độ trước đó.
Cùng năm, một nhà xuất bản Trung Quốc cho ra bản đồ “Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc phân tỉnh tinh đồ”. Trong đó, điểm cực nam không còn ở đảo Hải Nam nữa mà nó đã được đưa xuống phía nam hơn 1.500 km, tới tận vĩ tuyến 40 bắc, gần bờ biển Malaysia. Theo bản đồ này, đường “lưỡi bò” trên biển ôm trọn tới 80% biển Đông, bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tham vọng quá đáng của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ và các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia Việt Nam và một số nước Đông Nam Á.
Tiếp theo “chính sách xâm lược bằng bản đồ”, vào ngày 15.8.1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố yêu sách về vùng biển và hải đảo theo bản đồ nói trên. Từ đó, Bắc Kinh tích cực bắt tay chuẩn bị hành động. Nhưng do tình hình quốc tế lúc bấy giờ và lực lượng hải quân còn yếu nên tham vọng trên hướng biển vẫn còn có mức độ. Năm 1956, lợi dụng quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Sài Gòn chưa kịp ra thay thế ở Hoàng Sa, Trung Quốc bí mật đưa quân đổ bộ, chiếm đóng đảo Phú Lâm và Linh Côn thuộc nhóm phía đông của quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 1.1974, sau khi ký Thông cáo chung Thượng Hải và với sự làm ngơ của Mỹ, Trung Quốc huy động lực lượng kết hợp hải quân, không quân đánh chiếm nốt nhóm phía tây của Hoàng Sa. Chỉ huy chiến dịch mở mang bờ cõi bất hợp pháp này là ông Đặng Tiểu Bình và tướng Diệp Kiếm Anh (còn tiếp).
Bằng chứng về luận điệu thiếu cơ sở của Trung Quốc
- Nhiều sách báo phương Tây ghi lại sự kiện khoảng năm 1895, 1896 tàu Bellona của Đức và tàu Ymedi Maru của Nhật chở hàng cho Anh bị đắm ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, cách đảo Hải Nam 140 hải lý về phía nam. Người Trung Quốc ở đảo Hải Nam đã ra lấy trộm đồng trên tàu. Lãnh sự Anh ở Hải Nam phản đối với nhà đương cục Trung Quốc và nhận câu trả lời rằng Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc do đó Trung Quốc không có trách nhiệm gì ở đấy.
- Hàng loạt tài liệu, bản đồ chính thức và bán chính thức của Trung Quốc cho đến đầu thế kỷ 20 đều chỉ vẽ lãnh thổ Trung Quốc đến đảo Hải Nam. “Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ” xuất bản năm 1894, “Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản 1905, tái bản 1910 thể hiện rõ ràng điểm cực nam của Trung Quốc ở bờ nam đảo Hải Nam, và cuốn Trung Quốc địa lý giáo khoa thư xuất bản 1906 ghi rõ: Điểm cực nam Trung Quốc là Châu Nhai, Quỳnh Châu (tức Hải Nam). Sợ không chính xác, cuốn sách này còn nói rõ thêm: điểm cực nam đó ở vĩ tuyến 18o13’ bắc.
- Trong cuốn Phủ biên tạp lục của nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn viết năm 1776 cũng ghi lại một sự việc: Năm 1754, thuyền của đội Hoàng Sa do Chúa Nguyễn phái ra khai thác Hoàng Sa bị đứt dây neo, trôi dạt vào cảng Thanh Lan thuộc đảo Hải Nam. Các quan sở tại đã tra xét những người ở trên thuyền, khi biết là người của đội Hoàng Sa Việt Nam, đã chu cấp tiền, gạo cho về quê mà không hề phản đối gì. Chúa Nguyễn còn sai người viết thư cám ơn.
|
Tiến sĩ Hoàng Trọng Lập (*)
(*) Nguyên Phó trưởng ban Biên giới của Chính phủ, nguyên Đại sứ VN tại Malaysia