Lê Diễn Đức - Vào ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, nhà nước cộng sản đầu tiên tại Đông Nam Á, trước khi được đổi tên thành CHXHCN Việt Nam vào năm 1976. Ít ai ngờ rằng, đây là cột mốc bi kịch của người Việt từ độc lập đến nô lệ.
Mở đầu bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh lấy ý của Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tính từ thời điểm đó đến nay đã 67 năm, tuyên ngôn của Hồ Chí Minh hoàn toàn sáo rỗng trên thực tế và những gì đang diễn ra tại Việt Nam (VN) hôm nay ngược lại với nó 180 độ.
Cố trung tướng Trần Độ, một vị tướng xông pha trên nhiều trận mạc, từng giữ chức vụ cao của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã viết:
"Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi".
"Dường như lịch sử đang lặp lại? Dường như lịch sử đang khẩn thiết yêu cầu dân tộc VN quay lại bước đi ban đầu sau rất nhiều tang thương, mất mát, đau khổ, phản bội, nghèo đói triền miên, bất công, phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo… Và đáng sợ hơn cả xã hội VN hôm nay chả khác là bao với xã hội phong kiến tập quyền xưa kia nhưng được mạo nhận với rất nhiều mỹ từ. Giờ đây mục đích tốt đẹp không thể biện hộ, thay thế cho phương pháp, đường lối sai lầm. Nhân dân không thể là những vật làm thí nghiệm cho các cuộc cải cách liên tiếp thất bại mà vẫn không chịu thừa nhận, sửa chữa".
Giành độc quyền cai trị ở miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ năm 1975, ĐCSVN đã áp đặt một chế độ công an trị phi tự do dân chủ gấp nhiều lần thời thực dân Pháp.
Vào đầu thập niên 80, khi cả nước nghèo đói, thiếu thốn đủ điều, trên hè phố đã xuất hiện bài thơ dân gian mỉa mai:
Ngày 2 tháng 9,
Vườn hoa Ba Đình
Bác Hồ ở tít trên cao
Tôi nói hơi nhỏ đồng bào nghe không
Bác Hồ mặc áo nâu sòng
Đầu không đôi mũ, chân không mang giày
Xem ra cơ sự thế này
Nước Nam ắt sẽ ăn mày thêm đông.
Say quá đà bởi men chiến thắng và tham vọng hão huyền về mô hình XHCN trên cả nước, năm 1986 ĐCSVN mới bừng tỉnh, ý thức rằng, nếu không cải cách thì đất nước sẽ suy sụp không thể cứu vãn với một đội quân ăn mày nước Nam có quy mô bao trùm toàn quốc.
Suốt mấy chục năm dân tộc bị ĐCSVN bị kìm hãm, trói buộc, thế mà chỉ được "cởi trói" hạn chế trong vòng một thập niên, từ chỗ thiếu gạo ăn, VN trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Kinh tế tư nhân năng động góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng 7-8% trong suốt thập niên 90. Đời sống vật chất được cải thiện.
Thế nhưng, từ nền kinh tế kế hoạch lạc hậu chuyển sang kinh tế thị trường, đã tạo ra cơ hội cho các nhà lãnh đạo của ĐCSVN ít học, quen đi chân đất, tiếp cận với văn minh của thế giới tư bản. Họ nhận ra rằng, tắm bằng xà phòng Camay và xức nước hoa Gucci có thể làm mất mùi bùn phèn; mặc áo veston đeo cà vạt của Giorgio Armani có thể giấu được chất quê kệch và dốt nát của anh cựu y tá miệt vườn; Mercedes, BMV, Roll Royce đi êm và tiện nghi hơn Volga, Lada của Liên Xô, thịt bò Kobe của Nhật ngon và phẩm chất dinh dưỡng cao hơn thịt bán trong cửa hàng dành riêng cho cán bộ cao cấp của Trung ương trên phố Tôn Đản, Hà Nội.
Thế là như kẻ sắp chết đói được ăn ngon, xuất hiện một tầng lớp trọc phú mới, gắn chặt lương với bổng, quyền với tiền, tạo ra cuộc chạy đua náo loạn, bất chấp tất cả vì chủ nghĩa hưởng thụ, vì tiền, vinh thân phì gia, mà báo chí phương Tây gọi bằng thuật ngữ mới "mammonism", làm đảo lộn và băng hoại hết mọi kỷ cương phép nước, và các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Cuộc đua chen đen đỏ quyền-tiền khốc liệt này đã làm toàn bộ hệ thống chính trị của ĐCSVN bệnh hoạn, mục nát vì nạn mua quan bán chức, tham nhũng, rút ruột công trình bỏ túi riêng. Nhân cách của công chức trong bộ máy bị huỷ hoại thậm tệ trong mọi lãnh vực đời sống, vào tận học đường và bệnh viện. Nguồn tài lực của đất nước bị xói mòn, cạn kiệt dần và hậu quả nghiêm trọng mà thế hệ sau phải gánh vác là nhãn tiền.
Nhà nước CHXHCNVN thực sự chứng tỏ là một triều đại phong kiến kiểu mới, đứa con quái thai của chủ nghĩa Mác xít chuyên chế và chủ nghĩa phong kiến lạc hậu mà
"lực lượng lãnh đạo thì chẳng khác gì nhà vua cha truyền con nối. Từ một nhà vua cá nhân thời quân chủ, nay trở thành một nhà vua tập thể thời cộng hòa xã hội chủ nghĩa" - (
Nguyễn Văn An, cựu chủ tịch Quốc hội).
67 năm qua, triều đại CXHCNVN đã biến Việt Nam thành một nhà tù vĩ đại, giam hãm tử tưởng, quyền tự do, công lý và bình đằng xã hội, đúng hơn là đã tạo ra một
"Trại súc vật", như tên tác phẩm nổi tiếng của George Orwell, nơi mà với chính sách gia súc hoá, ĐCSVN muốn biến con người thành những con vật bằng lòng với cái chuồng chật hẹp và máng ăn dơ bẩn của mình, được nhà văn
Đào Hiếu mô tả sinh động qua đàn vịt vừa đi vừa kêu “cạc cạc” với
"đủ mọi thành phần: nông dân, giáo viên, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, học sinh, sinh viên, nhà văn, nhà thơ, diễn viên điện ảnh, hoa hậu, á hậu, người mẫu thời trang, giáo sư đại học, cán bộ công nhân viên, học sinh mẫu giáo"…
"Như thế, rõ ràng là hiện nay chúng ta đang có hai nước Việt Nam: một Nước Việt Khốn Khổ, bị rút ruột, bị đục khoét, bị bán tài nguyên, bán máu, bán phẩm giá, bị xâu xé, cướp bóc tả tơi và nợ như chúa Chổm. Và một Nước Việt Ảo đang được vẽ vời bằng những lời nói dối, nịnh bợ, cơ hội, lừa mị… của đủ mọi thành phần, từ cán bộ lãnh đạo cho tới học sinh mẫu giáo".
"Mỗi ngày có một bộ phận người Việt đang sống và làm việc trong cái Nước Việt Ảo ấy trong khi một bộ phận người Việt khác lại đang sống và làm việc cùng một Việt Nam khác: khốn khổ, trần trụi, tơi tả".
- "Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
- "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu".
- "Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân".
- "Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều".
- "Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu".
- "Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng".
- "Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn".
Có thể dễ dàng chứng minh danh sách tội trạng gán cho Pháp trên đây cũng đã và đang diễn ra y hệt trong lòng CHXHCNVN qua chuỗi sự kiện: nhà cầm quyền đàn áp thô bạo tại Bắc Giang năm 2010 khi dân chúng nổi giận biểu tình phản kháng việc em Nguyễn Văn Khương bị công an đánh chết; đàn áp tàn nhẫn người Thượng ở Tây Nguyên, giáo dân tại Đồng Chiêm (Hà Nội), Cồn Dầu (Quảng Nam) và Con Cuông (Nghệ An); sử dụng bạo lực cưỡng chế thu đất của nông dân giao cho tư nhân và
"những vụ cưỡng chế vô đạo lý, tàn ác dã man không còn chút lương tâm con người",
"dùng máy xúc máy ủi san lấp của cải mồ hôi nước mắt của nông đân, cày xới cả mồ mả người thân họ"; đời sống bị bóc lột tận cùng của công nhân đi xuất khẩu lao động, nô lệ tình dục của con gái VN lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc; công nhân trong các khu chế xuất, khu công nghiệp "thiếu ăn đến nỗi cơ bắp bị bào mòn, teo tóp, năng lượng dự trữ bị khai thác hết để làm việc" (theo Dân Trí), v.v...
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã xót xa viết trong bài
"Thơ trái luật" (trích):
"Quan tham ăn hối lộ
Sống như bậc đế vương
Người lương hai triệu mốt
Khốn khổ đủ trăm đường.
Dân cày bị mất ruộng
Biết kiếm việc gì làm
Nhìn cao ốc ngất ngưởng
Mà ruột tím gan bầm!
Công lý luôn thuộc kẻ nắm quyền
Tai họa đều đổ đầu dân đen
Sự thật mấy khi được nói thật
Tốt đẹp đều do việc tuyên truyền
Muốn sống, ai ơi phải giữ mồm
Thấy sai mà cứ nói lôm côm
Đừng tưởng tự do là có thật
Thời nay rất dễ bị gông cùm!".
Những điều trên tôi nêu trên cho thấy con đường từ độc lập đến nô lệ, hay từ nô lệ này chuyển qua nô lệ khác của nhân dân VN không còn gì phải bàn cãi. Nhưng đây mới một phần, chỉ là sự nô lệ bởi giặc nội xâm.
Năm 1990, thành trì cách mạng của ĐCSVN là Liên xô và "các nước XHCN anh em" tại châu Âu sụp đổ, chơ vơ trên biển động của ý thức hệ mác xít, không còn phao nào để cứu cánh cho sự duy trì quyền lực chuyên chính, và cũng vì quyền-tiền đã làm lu mờ lương tri, ĐCSVN đã đi tới một quyết định ô nhục lịch sử: bắt tay trở lại với kẻ thù truyền kiếp Bắc Kinh, đưa đất nước vào thảm kịch mới: bị nô lệ bởi ngoại xâm phương Bắc.
Trước việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và liên tiếp ngang ngược, trắng trợn xâm phạm chủ quyền biển đảo của VN, các động thái của nhà cầm quyền CSVN cho ta cảm tưởng chỉ phản ứng lấy lệ trong khuôn khổ lời nói gió bay, cốt không làm Bắc triều phật lòng. Tệ hơn, khi người dân lên tiếng nói yêu nước thì bị trấn áp tàn bạo, kể cả sử dụng những trò đốn mạt, hèn hạ. Bất kỳ hoạt động nào làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ xôi thịt hiện nay giữa Hà Nội và Bắc Kinh đều bị ngăn chặn, cấm đoán, bao gồm cả việc tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc, trong sử dụng ngôn ngữ của báo lề đảng, những ngôn từ bất lợi cho Trung Quốc báo chí phải né tránh thay bằng các từ ngữ "lạ", "nước ngoài", thậm chí
kẻ thù của hai Bà Trưng cũng không được nêu tên đích danh trong sách giáo khoa dành cho trẻ em.
"Không biết phía Trung Quốc khéo dỗ dành và hậu đãi thế nào mà Thứ trưởng Vịnh làm quà cho Trung Quốc bằng việc báo với Trung Quốc rằng: “Sẽ kiến quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam”, ý tức là chúng tôi sẽ đàn áp thẳng tay những người biểu tình chống các “đồng chí”, các “đồng chí” muốn làm gì ngoài biển, trên đất liền cũng được. Thật “trúng với cái bụng” các quan Trung Quốc lâu nay: “Ăn cướp lại bịt miệng nạn nhân không được la làng”.
"Hiện nay nguy cơ mất nước, nguy cơ bị làm nô lệ là có thật và đang tồn tại. Và nếu như không tỉnh táo, không khéo, không xây dựng quân đội mạnh, không xây dựng thế trận quân hậu mạnh, chúng ta có thể bị mất nước, chúng ta có thể bị làm nô lệ ngay khi mà người lính chưa kịp xông trận, ngay khi mà người lính chưa kịp nổ súng".
Có thể đưa ra rất nhiều dữ kiện khác về sự nhu nhược kiên nhẫn của nhà cầm quyền CSVN trước Trung Quốc trong thời gian qua, cùng những việc làm cụ thể mà ĐCSVN đã đưa đất nước vào vòng lệ thuộc về kinh tế và an ninh lãnh thổ. Thiết nghĩ thái độ và những lời phát biểu của các tướng lĩnh quân đội đã nêu, đủ cho thấy đất nước VN không phải chỉ đứng trước nguy cơ bị nô lệ mà thực tế là đang bị vòng nô lệ của Bắc triều xiết chặt dần tới mức cuối cùng.
Đôi lời kết
Ngày 19/6/1919, những người VN yêu nước đã ký bản yêu sách dưới một tên chung "Nguyễn Ái Quốc" gửi Hội nghị Hòa bình Versailles gọi là
Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam (tiếng Pháp: Revendications du peuple annamite) gồm 8 điểm, trong đó yêu cầu Pháp
"tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị", "xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân", "tự do báo chí và tự do ngôn luận", "tự do lập hội và hội họp" và "Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương", "thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật".
Trước đó, nhân sĩ, trí thức VN cũng đã nhiều lần gửi những kiến nghị tới nhà cầm quyền, nhưng thường về các sự kiện cụ thể như khai thác bauxite Tây Nguyên, trả tự do cho tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, cưỡng chế đất ở Văn Giang hay xây nhà máy điện hạt nhân... Lần này, theo tôi, bản kiến nghị chính trị này liên quan trực tiếp tới hệ thống nhiều nhất từ trước tới nay, có thể nói là mạnh dạn nhất, đề cập tới một số vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội, đặc biệt là chủ quyền đất nước.
Tuy nhiên, một trong các quyền công dân tối quan trọng không thấy các vị nhân sĩ, trí thức nêu ra là quyền bầu cử tự do, tức quyền được tham gia vào việc quản lý, điều hành đất nước của mọi công dân. Điều này không có gì đáng sợ hãi để không dám đề cập tới, vì nó không xung đột với tuyên truyền của ĐCSVN, rất hợp với lòng dân và có thể lấy nó làm mục tiêu chính để vận động tranh đấu. Đây cũng là chìa khoá mở ra những yêu sách khác.
“Vẫn biết đại đa số dân mình chưa biết đọc biết viết, nhưng vin vào đấy để kết luận rằng dân ta không đủ tư cách để kén chọn đại biểu là không hiểu gì dân chúng, không hiểu gì chính trị (…). Dân chúng đã có ý thức chính trị một cách khá dồi dào. Và hễ có ý thức chính trị là có đủ những điều kiện cần thiết nhất để phân biệt ai là thù, ai là bạn, ai xứng đáng là đại biểu chân chính của mình. Nói khác đi, dân chúng (…) chưa biết bàn luận những chuyện xa xôi, nhưng có một điều mà họ biết chắc chắn, biết rõ ràng hơn ai hết, là quyền lợi của họ (…). Chỉ Tổng tuyển cử mới để cho dân chúng có dịp nói hết những ý muốn của họ (…)”.
Ngoài ra, người Việt dường như có ít kinh nghiệm cách mạng quần chúng, nên các kiến nghị được thể hiện như một tâm thư dài dòng, nghiêng về mong đợi thiện chí của nhà cầm quyền hơn là bản yêu sách và cũng đồng thời là khẩu hiệu đấu tranh hướng tới quần chúng. Ở Ba Lan vào năm 1980, để vận động quần chúng tranh đấu, bản yêu sách của công nhân Ba Lan được viết trên một tấm gỗ thô sơ với 21 điều gạch đầu dòng liên quan đến tự do và cơm, áo, gạo, tiền. Tấm gỗ này hiện được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Lịch sử của thế giới.
Hy vọng về sự thay đổi từ phía nhà cầm quyền CSVN sẽ là ảo tưởng. Trước hết lãnh đạo ĐCSVN không có văn hoá hồi âm, phúc đáp vì họ bị khuyết tật vĩnh viễn về mắt, tai và giây thần kinh liêm sỉ. Thứ đến, chưa có chế độ độc tài nào chịu nhân nhượng khi không có áp lực quần chúng đủ mạnh. Địa chỉ đúng cần phải gửi là Nhân Dân.
Nếu hiện nay trong nước đã có những phong trào của thanh niên in áo T-shirt với chữ "NO U", hay áo đen với dòng chữ đòi tự do cho các bloggers Điều Cày, Anh Ba Sài Gòn và Tạ Phong Tần, xuất hiện công khai, hoặc một nhóm anh em trẻ vừa qua đã quyên góp tiền, bí mật in hàng ngàn cuốn vở với trang bìa có biểu tượng Hoàng Sa- Trường Sa phân phát cho học sinh nghèo, thì thiết nghĩ việc in ấn các yêu sách của nhân sĩ, trí thức chuyển tới quần chúng không phải là việc làm bất khả thi.
Thử hỏi trong gần 90 triệu dân mà 60-70% sống ở nông thôn, có được bao nhiêu người tiếp cận với Internet để biết đến tình trạng bi kịch của đất nước hiện nay, đến sự phản bội của nhà cầm quyền, nguy cơ bị nô lệ thực sự bởi Bắc triều và phản ứng của dư luận cũng như tiếng nói của giới trí thức?
"Mọi cuộc cách mạng đều bắt đầu từ một nhúm người" và "đều từ trên xuống" (A. Michnik), nhưng cách mạng thành công là nhờ có đám đông quần chúng. Lòng yêu nước, ý thức phản kháng truớc bất công và tinh thần dấn thân cho lợi ích xã hội và của bản thân phải được thức tỉnh, đánh động, tích luỹ và luôn được hâm nóng. Để đến lúc cần thiết các vị mới có thể có hậu thuẫn rộng lớn. Không ai hơn các vị nhân sĩ trí thức sống trong nước làm điều này, vì họ là những nguời từng trải, có học thức, có uy tín, được quần chúng biết đến và tin cậy. Sức thuyết phục của các vị cao hơn bất cứ ai hay tổ chức chính trị nào ngoài Việt Nam. Ở một quốc gia bình thường với quyền tự do lập hội, 71 vị đã có thể là một tổ chức xã hội, thậm chí một đảng chính trị có sức thu hút đông đảo người đứng bên cạnh mình, kể cả các đảng viên cộng sản.
Chỉ trong môi trường tranh đấu sôi động của quần chúng mới tạo ra cơ hội xuất hiện những nhân tố cho sự thay đổi, mới có thể xuất hiện và xây dựng được những biểu tuợng như Lech Walesa của Ba Lan, Vaclav Havel của Tiệp Khắc cũ, Aung San Suu Kuyi của Miến Điện, hay thậm chí một "Boris Jelsin" Việt Nam.
Chỉ và chỉ nhân dân trong nước, mà giới trí thức phải là ngọn cờ đầu, mới có thể tự phá bỏ được cho mình xích xiềng nô lệ nội xâm và ngoại xâm, chứ không phải bất kỳ một lực lượng nào khác.
"Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian
Vùng lên, hỡi ai cơ khổ bần hàn!"
(Quốc tế ca)
© 2012 Lê Diễn Đức - RFA Blog
gửi Dân Làm Báo