Trần Huỳnh Duy Thức với sách lược giáo dục

Lê Thăng Long (Danlambao) - Chúng ta biết nhiều đến Trần Huỳnh Duy Thức như một doanh nhân, một nhà kinh tế. Nhưng anh còn là người rất quan tâm đến việc giáo dục dù ở tư cách của một người cha trong gia đình, một lãnh đạo doanh nghiệp hay một nhà đấu tranh vì dân chủ và thịnh vượng cho đất nước. Bài viết này giới thiệu quan điểm của anh về cách để phát triển giáo dục cho đất nước.
Trong quyển sách Con đường Việt Nam có đề nghị 5 sách lược lớn là cải cách kinh tế, giáo dục, pháp luật, biển Đông và Tây nguyên. Trong quyển sách này quan điểm giáo dục không đề cập đến những vấn đề quá hiển nhiên như triết lý giáo dục, phương pháp dạy học, cách tổ chức hệ thống giáo dục đào tạo v.v... Thức nói đây là những cốt lõi sống còn của giáo dục mà không được phép sai hay thử nghiệm liên tục. Phải dựa vào kinh nghiệm thành công của thế giới và những bậc tiền bối mà Việt Nam không thiếu như giáo sư Hoàng Tụy, nhà văn Nguyên Ngọc, v.v... Sách lược giáo dục được quyển sách Con đường Việt Nam tiếp cận từ góc độ kinh tế.
Trước tiên, Việt Nam cần nhìn ra một cách thức mà qua đó việc đầu tư cho giáo dục là một phương thức để tăng trưởng kinh tế, không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn tạo nên nguồn vốn xã hội và giá trị tinh thần to lớn cho cả dân tộc. Mà thiếu những cái này thì quốc gia không bao giờ phát triển văn minh được. Tư duy phổ biến của xã hội và những người hoạch định chính sách vĩ mô dù luôn nói giáo dục là quốc sách nhưng lại xem nó như một gánh nặng nhưng phải đầu tư vì sự nghiệp lâu dài. Chính lối suy nghĩ này đã triệt tiêu động lực tự nguyện đầu tư vào giáo dục của toàn xã hội, làm nó thiếu hụt trầm trọng so với nhu cầu học hành để đổi đời của hàng chục triệu dân.
Thức rất phê phán các dự án đầu tư công “khủng” như đóng tàu, mua tàu, sản xuất thép, nhà máy lọc dầu, v.v... Anh bảo rằng thật là thiếu khôn ngoan khi đầu tư vào những ngành công nghiệp mà năng lực chung của thế giới toàn cầu hóa đã trở nên dư thừa, thực chất chỉ để khai thác tài nguyên, lao động ít kỹ năng và chi phí xả thải công nghiệp rất rẻ ra môi trường của Việt Nam mà thôi. Thức đã nói và viết nhiều về những điều này từ năm 2007 đến khi bị bắt (05/2009). Lúc đó anh đã cho rằng ngoài những dự án đầu tư nước ngoài để khai thác lợi thế giá rẻ nói trên, các dự án đầu tư công vào các lĩnh vực này sẽ sớm bị phá sản. Những phê phán này của Thức đã được dùng làm bằng chứng để cáo buộc: “phá hoại, đả kích quyết liệt các chủ trương của Đảng và chính sách kinh tế của Chính phủ”. Trong tù anh Thức nói đùa với tôi: “ước gì những phê phán của mình phá hoại được các chính sách kinh tế đó thì Vinashin đã không phải vỡ nợ. Mấy năm tù cũng đáng so với 80 ngàn tỷ”. Vừa cười vui xong anh lại trầm tư nói rằng số tiền đó có thể xây cả ngàn trường học vùng nông thôn, cho cả triệu em được học hành đàng hoàng. Nó không chỉ tạo ra tăng trưởng kinh tế ngay lập tức mà còn tạo nên hàng triệu con người có kiến thức, có kỹ năng để đất nước có thể xây dựng những nền công nghiệp dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Nhờ vậy họ được trả lương cao thay vì bị khai thác như một lực lượng lao động giá rẻ trong một đất nước bị biến thành vùng trũng công nghiệp của thế giới.

Lê Thăng Long (Danlambao) - Chúng ta biết nhiều đến Trần Huỳnh Duy Thức như một doanh nhân, một nhà kinh tế. Nhưng anh còn là người rất quan tâm đến việc giáo dục dù ở tư cách của một người cha trong gia đình, một lãnh đạo doanh nghiệp hay một nhà đấu tranh vì dân chủ và thịnh vượng cho đất nước. Bài viết này giới thiệu quan điểm của anh về cách để phát triển giáo dục cho đất nước.
Trong quyển sách Con đường Việt Nam có đề nghị 5 sách lược lớn là cải cách kinh tế, giáo dục, pháp luật, biển Đông và Tây nguyên. Trong quyển sách này quan điểm giáo dục không đề cập đến những vấn đề quá hiển nhiên như triết lý giáo dục, phương pháp dạy học, cách tổ chức hệ thống giáo dục đào tạo v.v... Thức nói đây là những cốt lõi sống còn của giáo dục mà không được phép sai hay thử nghiệm liên tục. Phải dựa vào kinh nghiệm thành công của thế giới và những bậc tiền bối mà Việt Nam không thiếu như giáo sư Hoàng Tụy, nhà văn Nguyên Ngọc, v.v... Sách lược giáo dục được quyển sách Con đường Việt Nam tiếp cận từ góc độ kinh tế.
Trước tiên, Việt Nam cần nhìn ra một cách thức mà qua đó việc đầu tư cho giáo dục là một phương thức để tăng trưởng kinh tế, không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn tạo nên nguồn vốn xã hội và giá trị tinh thần to lớn cho cả dân tộc. Mà thiếu những cái này thì quốc gia không bao giờ phát triển văn minh được. Tư duy phổ biến của xã hội và những người hoạch định chính sách vĩ mô dù luôn nói giáo dục là quốc sách nhưng lại xem nó như một gánh nặng nhưng phải đầu tư vì sự nghiệp lâu dài. Chính lối suy nghĩ này đã triệt tiêu động lực tự nguyện đầu tư vào giáo dục của toàn xã hội, làm nó thiếu hụt trầm trọng so với nhu cầu học hành để đổi đời của hàng chục triệu dân.
Thức rất phê phán các dự án đầu tư công “khủng” như đóng tàu, mua tàu, sản xuất thép, nhà máy lọc dầu, v.v... Anh bảo rằng thật là thiếu khôn ngoan khi đầu tư vào những ngành công nghiệp mà năng lực chung của thế giới toàn cầu hóa đã trở nên dư thừa, thực chất chỉ để khai thác tài nguyên, lao động ít kỹ năng và chi phí xả thải công nghiệp rất rẻ ra môi trường của Việt Nam mà thôi. Thức đã nói và viết nhiều về những điều này từ năm 2007 đến khi bị bắt (05/2009). Lúc đó anh đã cho rằng ngoài những dự án đầu tư nước ngoài để khai thác lợi thế giá rẻ nói trên, các dự án đầu tư công vào các lĩnh vực này sẽ sớm bị phá sản. Những phê phán này của Thức đã được dùng làm bằng chứng để cáo buộc: “phá hoại, đả kích quyết liệt các chủ trương của Đảng và chính sách kinh tế của Chính phủ”. Trong tù anh Thức nói đùa với tôi: “ước gì những phê phán của mình phá hoại được các chính sách kinh tế đó thì Vinashin đã không phải vỡ nợ. Mấy năm tù cũng đáng so với 80 ngàn tỷ”. Vừa cười vui xong anh lại trầm tư nói rằng số tiền đó có thể xây cả ngàn trường học vùng nông thôn, cho cả triệu em được học hành đàng hoàng. Nó không chỉ tạo ra tăng trưởng kinh tế ngay lập tức mà còn tạo nên hàng triệu con người có kiến thức, có kỹ năng để đất nước có thể xây dựng những nền công nghiệp dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Nhờ vậy họ được trả lương cao thay vì bị khai thác như một lực lượng lao động giá rẻ trong một đất nước bị biến thành vùng trũng công nghiệp của thế giới.