Bên cạnh đó, đảm bảo tính hài hòa, cân đối giữa “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng nghề nghiệp; cấu trúc, nội dung chương trình và sách giáo khoa (SGK) đảm bảo tính chỉnh thể, linh hoạt, thống nhất. Với việc định hướng thay đổi SGK và cách dạy học, giới chuyên môn hi vọng học sinh (HS) sẽ hết “chán” học lịch sử.
Giải mã hiện tượng “chán” học sử
Theo thông báo của Bộ GD-ĐT, hội thảo này đã tập hợp được 99 báo cáo gồm phát biểu khai mạc của lãnh đạo Bộ GD-ĐT, báo cáo đề dẫn và các báo cáo tham luận của các đơn vị, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lịch sử, các cán bộ quản lý, giảng viên và giáo viên (GV).
Các ý kiến đều cho rằng, nội dung những phần đồng tâm của chương trình chưa thể hiện rõ về mức độ khác nhau, yêu cầu cần đạt giữa các cấp, lớp khác nhau. Cấu trúc chương trình chưa thật cân đối giữa nội dung giáo dục của các cấp học; giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới; giữa các nội dung về chính trị với kinh tế, xã hội, văn hóa; giữa lịch sử cổ trung với lịch sử hiện đại…
Nội dung SGK nặng về lịch sử chiến tranh chống xâm lược, nội dung về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa được lặp lại ở các cấp học. Nhiều thành tựu nghiên cứu mới về lịch sử chưa được cập nhật. Một số bài trong SGK, đặc biệt là phần lịch sử Việt Nam còn “nặng", mang tính hàn lâm, dung lượng bài chưa phù hợp với thời lượng dạy học. Cách trình bày của SGK còn ít kênh hình, tư liệu lịch sử...
Bên cạnh đó, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn lịch sử chậm đổi mới, chưa thực sự chuyển biến trong ý thức của từng GV và cán bộ quản lý. Đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu diễn ra trong các kỳ thi, hội giảng, dự giờ hoặc những đợt kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lí. Chưa có nhiều biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của HS. Một bộ phận GV chưa chú trọng rèn luyện cho HS năng lực tư duy độc lập.
Việc kiểm tra, đánh giá vẫn yêu cầu học thuộc lòng nhiều hơn là các mức độ hiểu, vận dụng và các kỹ năng phân tích, tổng hợp, rút ra nhận xét, kết luận và các kĩ năng thực hành khác, chưa có tác dụng hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận GV môn lịch sử ở trường phổ thông còn hạn chế về năng lực chuyên môn.
Ngoài ra, mô hình đào tạo GV sư phạm nói chung, GV dạy lịch sử nói riêng vẫn còn chậm chuyển đổi sang hệ thống đào tạo mở, đào tạo theo tín chỉ, ít hội nhập quốc tế. Phương pháp đào tạo vẫn lạc hậu, phương pháp dạy học của một bộ phận không nhỏ GV các trường ĐH, CĐ chủ yếu vẫn là thuyết trình nên không phát huy được tính tích cực của sinh viên.
Các ý kiến đóng góp cũng cho rằng, nguyễn nhân của những bất cập này là do tư duy về giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; xã hội chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của môn lịch sử, vẫn còn tư tưởng coi trọng các môn tự nhiên, xem nhẹ các môn xã hội, trong đó có môn lịch sử; chế độ, chính sách chưa thực sự tạo động lực cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; khoa học giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chậm đổi mới và phát triển, còn nhiều bất cập; các trường, khoa sư phạm chưa thực sự được quan tâm, đầu tư đúng mức.
Thay đổi như thế nào?
Cũng theo Thông báo của Bộ GD-Đ, các chuyên gia tham sự hội thảo cũng cho rằng nhận thức đúng vị trí, vai trò của môn lịch sử ở trường phổ thông là vấn đề quan trọng bậc nhất hiện nay. Dạy học lịch sử không chỉ trang bị kiến thức mà còn có ưu thế trong việc giáo dục lòng yêu nước, trân trọng giá trị lịch sử truyền thống của dân tộc, giáo dục nhân cách, tư duy độc lập sáng tạo cho HS. Đối với Việt Nam, lịch sử càng giữ vai trò quan trọng, gắn liền với sự phát triển và tồn vong của quốc gia - dân tộc.
Việc dạy học lịch sử cần quán triệt các mục tiêu này đối với tất cả HS phổ thông, mặt khác phải đóng góp nhiều định hướng ngành nghề của HS sau giáo dục phổ thông. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, sẽ có một số HS thực sự yêu mến và có năng lực tiếp tục học các chuyên ngành lịch sử để trở thành những tài năng trẻ về sử học.
Chính vì thế đổi mới chương trình, SGK môn lịch sử phải tuân theo các nguyên tắc: Quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng; đảm bảo kế thừa những thành tựu của Việt Nam và vận dụng hợp lý kinh nghiệm quốc tế về phát triển chương trình giáo dục phổ thông; đảm bảo tính thống nhất toàn quốc, linh hoạt vùng miền, phù hợp với đối tượng và tính khả thi của chương trình, SGK; đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học và phương thức đánh giá kết quả học tập.
Ngoài ra, nên cấu trúc chương trình theo hướng kết hợp giữa “đồng tâm” với “đường thẳng”, ở Tiểu học và THCS cần thực hiện tốt hơn phương châm dạy học tích hợp, góp phần giảm số lượng môn học ở 2 cấp này; ở THPT cần thực hiện tốt hơn phương châm dạy học phân hóa bằng cách có thêm nhiều nội dung dạy học tự chọn; nội dung giáo dục cần mang tính chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Nên cân đối để bảo đảm hài hòa giữa lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc trong từng cấp học; giảm nội dung chính trị, chiến tranh, bổ sung lịch sử văn minh thế giới, các nội dung về văn hóa dân tộc, về kinh tế; cập nhật những thành tựu nghiên cứu của khoa học lịch sử; gắn nội dung bài học lịch sử với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, giữ gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng kết hợp hợp lí các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại để tạo hứng thú học tập cho HS; chú trọng rèn luyện năng tự học với SGK và các tư liệu lịch sử khác, nghe giảng - tự ghi chép, ghi nhớ, hiểu, vận dụng kiến thức lịch sử và trình bày các vấn đề lịch sử; đa dạng các hình thức tổ chức dạy học, tăng cường khai thác các tư liệu bảo tàng, tổ chức dạy học lịch sử tại bảo tàng, nhà truyền thống, từng bước thực hiện giáo dục di sản và dạy học theo dự án; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả trong dạy học lịch sử.
Học sinh Thanh Hóa trong một buổi học thực nghiệm môn Lịch sử tại di sản Thành nhà Hồ. (Ảnh: Nguyễn Thùy)
Hoạt động kiểm tra, đánh giá phải có tác dụng hỗ trợ thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, đề kiểm tra, thi theo hướng mở; kết hợp giữa hình thức ra đề tự luận và trắc nghiệm khách quan; triển khai nội dung đào tạo trong các khoa sư phạm và bồi dưỡng GV phổ thông về kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học (đánh giá trên lớp), kết hợp đánh giá trên lớp và đánh giá đầu ra; kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cho biết, những ý kiến đóng góp này cũng là kênh để các Sở GD-ĐT, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông và các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ GD-ĐT tiếp tục nghiên cứu vận dụng trong triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ GD-ĐT hàng năm.
S.H