28/05/2011 15:45:41 - Sáng thứ 7, Ngu Ngơ ngủ dậy muộn, bỗng có tiếng cưới ré chua lòm của Mũm Mĩm. Ngu Ngơ giật mình mở mắt, thấy Mũm Mĩm đang ôm bụng cười rũ, tám chục cân Mũm Mĩm rung bần bật. Ngu Ngơ trố mắt nhìn Mũm Mĩm, nói chuyện gì mà cười khiếp thế. Mũm Mĩm ôm lấy Ngu Ngơ, nói buồn cười quá anh ạ. Xưa nay toàn nghe nói dân giả mạo chữ kí của quan, bây giờ mới biết quan cũng giả mạo chữ kí của dân. Ngu Ngơ cười phì, nói thế a, thế a, nhưng mà chuyện gì?
Mũm Mĩm cốc đầu Ngu Ngơ, nói có thế mà cũng không hiểu. Là thế này, Đầu năm 1994, theo Chương trình 327 của Chính phủ dân Diễn Lợi đã tham gia trồng thông ở các đồi trọc để hưởng lợi các chế độ. Khi thông lên xanh tốt nhiều người dân lên xã hỏi lâm bạ để đến Ngân hàng vay tiền phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, nhưng Xã bảo chưa có, trên huyện chưa đưa về. Ngu Ngơ nói thì tiền chưa về là chưa về chứ sao. Mũm Mĩm đập tay Ngu Ngơ, nói khoan, để em kể nốt. Mãi sau này người ta mới biết xã giấu lâm bạ, mạo chữ ký của dân trồng rừng, hợp lý hóa thủ tục, qua mặt huyện để ký hợp đồng khai thác nhựa thông với người ngoài từ năm 1998 mà không ai hay biết gì hết. Ngu Ngơ đập bàn cái rầm, nói tham! Dân làm ăn vất vả, đã không giúp được gì cho dân lại còn ăn chặn của dân. Thật là quá đáng. Mũm Mĩm nói chưa hết đâu, khi hỏi vì sao có chuyện đó, quan xã bảo: "Trước lúc khai thác nhựa thông, chúng tôi cũng đã thông báo cho dân nhưng không ai nhận." Ngu Ngơ ôm bụng cười, nói ối cha mẹ ơi! Dân trồng thông vất vả, đến khi khai thác nhựa thông lại không nhận ạ? Có ai như vậy không. Mũm Mĩm nói thế mới tức cười. Khi hỏi số tiền khai thác nhựa thông 3 năm nay sử dụng vào việc gì, quan xã nói: "Số tiền khai thác nhựa thông mỗi năm chưa đến 100 triệu, chúng tôi đưa vào PCCCR, bảo vệ rừng." Ngu Ngơ cười lăn lộn, nói tiền khai thác nhựa thông để phòng cháy, nói thế mà nghe được sao. Khi quy hoạch trồng thông người ta đã tính hết các nguồn chi, chi trồng rừng, chi chăm sóc, chi bảo vệ, chi phòng cháy. Có ai lại lấy tiền khai thác nhựa thông đi phòng cháy không, có ai không hả? Mũm Mĩm ôm mặt thở than, nói khổ lắm, giấu đầu hở đuôi. Khi hỏi thế thì tại sao lại giấu lâm bạ, giả chữ kí của dân, quan xã im như thóc, bảo: "Chúng tôi sẽ cho kiểm tra lại"!? Ngu Ngơ cười chua chát, nói rõ ràng chưa. Có bảo dân là gian nữa không. Ai gian, ai ngay mọi người đều biết cả. Có thế quan xã mới im như thóc. Nói làm sao mà nói, giấu lâm bạ của dân là một hành động phi pháp, giả mạo chữ ký của dân lại càng phi pháp. Giấu lâm bạ, giả chữ ký của người dân trồng rừng thông để làm việc sai trái khác mà hơn 10 năm trời dân đổ mồ hôi sôi nước mắt tạo dựng nên thành quả có phải là một hành động phi pháp có chủ ý, gây thiệt hại nghiêm trọng của quan xã không?. Mũm Mĩm cười cái hậc, nói anh hỏi em, em biết hỏi ai. Người ta bảo quan xã nằm ngã mà ăn quả không sai, hèn gì dân đói nghèo là phải. Ôi cốc mò cò xơi, biết bao giờ mới khá. Nguyễn Quang Lập |
THÔNG BÁO !
Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người
TM Ban Điều Hành Blog
TM Ban Điều Hành Blog
28 May 2011
"Quan xã" nằm ngã mà ăn?
Ghi Chú
XaHoi - TeNan - ThamNhung
Hãi hùng miến phơi trên bãi rác
Xin đừng bịp bợm thế hệ trẻ chúng tôi nữa!
Tôi là: Một công dân Việt Nam, 30 tuổi, Đảng viên, Sỹ quan quân đội, Bí thư Đoàn và là một Nhà giáo. Thế hệ trẻ chúng tôi mặc dù được tuyên truyền, giáo dục, thậm chí là nhồi sọ rằng mình đang được sống ở một xứ sở thiên đường, một nơi mà nền dân chủ được phát huy cao độ cũng như vô vàn những điều tốt đẹp khác nhưng những gì chúng tôi nhìn thấy đang chứng minh điều ngược lại. Như vậy, chúng tôi đang bị bịp bợm một cách trắng trợn bởi những kẻ dốt nát về trí tuệ nhưng ma giáo về chính trị. Tôi viết thư này mong muốn Dân luận đăng tải để những kẻ đó, nếu có đọc (và chắc chắn sẽ đọc, rất kỹ là đằng khác) biết rằng chúng tôi không phải là những con lừa để các vị dắt mũi đi theo con đường nào cũng được. Chúng tôi là những thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, có học, có bản lĩnh… và chúng tôi mong muốn được đối xử xứng đáng hơn, chí ít là không bị bịp bợm. Và cũng chỉ bằng cách đó, các vị mới có cơ may kêu gọi được thanh niên chúng tôi trở thành một lực lượng hùng hậu, là "cánh tay đắc lực" theo đúng nghĩa của nó, góp sức được nhiều hơn cho Tổ quốc, cho Nhân dân (tôi không muốn nói "cho Đảng" ở đây mặc dù là một Đảng viên, vì chỉ khi nào Đảng thật sự xứng đáng, tôi mới cống hiến hết mình cho Đảng). Sau đây, tôi muốn trình bày những gì mà các vị đã, đang, và sẽ còn (âm mưu) tiếp tục bịp bợm chúng tôi: 1. Về chính trị, tư tưởng: - Các phương tiện thông tin đại chúng suốt ngày ra rả rằng Việt Nam là một quốc gia có nền dân chủ đầy đủ, có một Nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Chúng tôi hiểu rằng một nền dân chủ đầy đủ phải đảm bảo những quyền tự do cơ bản cho con người: quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tụ họp, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng – tôn giáo, tự do về cư trú, di dân,… Nhưng thực tế thì ngược lại, tôi chẳng thấy một quyền nào được đảm bảo đầy đủ, thậm chí có những quyền bị chà đạp nghiêm trọng. Có lẽ không cần nêu những ví dụ ra đây để minh chứng cho điều đó vì các vị là những người biết nhiều hơn cả. Còn Nhà nước pháp quyền đúng nghĩa phải có Tam quyền phân lập, nhưng ở Việt Nam tồn tại một thực trạng là Đảng đứng trên cả 3 cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp – vô hình trung trở thành một thế lực siêu nhà nước. Chính vì thế mà có những việc đáng ra không phải của mình thì Đảng lại tự nhận, còn những việc thuộc chức năng của mình thì làm không đến nơi đến chốn. Điều này dẫn đến sự chồng chéo, kém hiệu quả trong quản lý và điều hành, gây hậu quả nặng nề và hết sức tai hại cho sự phát triển của đất nước. Chúng tôi cay đắng nhận ra rằng Tổ quốc mình đang đi thụt lùi so với bạn bè quốc tế mà nguyên nhân cơ bản không phải do Nhân dân tôi ngu dốt (ngược lại IQ rất cao!?). Các vị giải thích thế nào cho thực trạng này? - Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi được giáo dục về chủ nghĩa Mác – Lênin, về phương hướng phấn đấu vươn lên trở thành Đoàn viên rồi Đảng viên Cộng sản, tin theo lý tưởng "Suốt đời phấn đấu – hi sinh vì chủ nghĩa Cộng sản". Tôi nghĩ rằng đây là sự bịp bợm lớn nhất mà các vị dành cho thế hệ chúng tôi. Kể cả bây giờ, chứng kiến rất nhiều lễ kết nạp Đảng viên mới, tôi vẫn thấy các anh, các chị, các bạn đọc những đơn xin vào Đảng giống nhau, đều thề thốt trung thành với cái mà mình không biết là gì. Vậy tại sao các vị vẫn tiếp tục duy trì tình trạng này? Nếu không chỉ cho chúng tôi biết CNXH hay CNCS là cái gì thì mong các vị hãy đừng bắt chúng tôi đi theo những chủ thuyết đó, hãy thay thế bằng những mục tiêu, lý tưởng gần gũi mà nhân văn hơn, như các nước tiên tiến – bạn bè của chúng ta – đang thực hiện theo chẳng hạn. Hay gần nhất với chúng ta là những luận điểm trong tư tưởng và đạo đức Bác Hồ cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Lại nói về tư tưởng và đạo đức Bác Hồ, Trung ương Đảng mà trực tiếp là Ban Tuyên giáo Trung ương phát động một cuộc vận động học tập và làm theo vô cùng rầm rộ. Đây lại là một sự bịp bợm rất lớn. Sở dĩ tôi nói thẳng đây là một cuộc vận động bịp bợm vì nó hết sức hao tiền tốn của mà không mang lại hiệu quả gì, hoàn toàn mang tính hình thức. Nhiều người trong số các tấm gương được tôn vinh trong giai đoạn thứ nhất của cuộc vận động (gọi là giai đoạn học tập) là những "tấm gương" mờ, thậm chí là những con người vô đạo đức. Chỉ riêng giai đoạn này đã ngốn không biết bao nhiêu tiền của, giấy mực, thời gian cho hội nghị, hội thảo, tuyên truyền, giáo dục, sơ tổng kết, viết bài thu hoạch,… mà nếu các vị có dịp chứng kiến có những đơn vị sau đợt sơ tổng kết đã bán giấy vụn các bài thu hoạch đóng hàng thùng lớn thì các vị mới hiểu, mình đã xúc phạm Bác Hồ kính yêu đến mức như thế nào. 2. Về giáo dục, đào tạo: Có thể nói thẳng về tình trạng giáo dục nước nhà trong hơn 20 năm trở lại đây, xuất phát từ chính trải nghiệm của bản thân, là một nền giáo dục bịp bợm. Điều này thể hiện ở sự nhộm nhoạm, hỗn loạn, vô tổ chức vô kỷ luật, thầy không ra thầy, trò càng không ra trò, bất chấp cả những nguyên tắc cơ bản nhất của một nền giáo dục lành mạnh. Và kết quả: sản phẩm của nền giáo dục XHCN của nước nhà đa phần là những người bất tài (đến giờ phút này, đau đớn thay tôi nhận ra mình cũng là kẻ nằm trong số đó), vô dụng, cơ hội, lưu manh,… số khá hơn thì tìm mọi cách để được "tỵ nạn giáo dục" ở những nước phát triển. Các vị có thấy tình cảnh này không? Tôi biết chắc là có, nhưng các vị vẫn để như thế dù về hình thức đang tiến hành những biện pháp cải cách tào lao, lòng vòng, tiếp tục tiêu tiền của Nhân dân cho những dự án giáo dục vô bổ. Và tôi có cảm giác, các vị đang cố gắng khuấy cho vũng nước giáo dục ngày càng đục lên để các vị, bạn bè và người thân các vị dễ dàng trục lợi. Còn con cháu các vị, không có gì phải lo cả vì chúng đã được cha mẹ, ông bà cho đi "tỵ nạn" cả rồi. Có đau lòng không khi những kẻ vô học đi tuyển sinh những người có học (không tin, các vị cứ đến các trung tâm tuyển sinh mà hỏi, có kẻ nào làm công tác tuyển sinh mà không nhà lầu xe hơi, sống xa hoa trên sự đóng góp của thí sinh và gia đình họ trong khi không có trình độ tối thiểu để hiểu được chuyên ngành mình tuyển sinh đào tạo về cái gì, để rồi sau tuyển sinh, họ thực hiện phương châm "đem con bỏ chợ", "sống chết mặc bay"). Có đau lòng không khi sinh viên tốt nghiệp ra trường, đa phần thất nghiệp hoặc không làm đúng chuyên môn. Có đau lòng không khi đi tuyển dụng, các doanh nghiệp thờ ơ với những người có bằng cấp cao vì theo họ không thể trả lương cao cho những kẻ chỉ có bằng cấp. Có đau lòng không khi có những thầy cô giáo hết lòng vì học trò thì bị bạc đãi, tích cực đấu tranh với tiêu cực thì bị vùi dập để phải từ bỏ niềm vinh quang được đứng trên bục giảng. Tôi gọi đây là một nền giáo dục bịp bợm chắc vẫn đang còn nhẹ vì nhiều người đã gọi đây là nền giáo dục vô nhân đạo. 3. Về kinh tế – xã hội và khoa học công nghệ: Không được học nhiều về kinh tế nhưng tôi biết thực trạng kinh tế nước nhà không giống như những gì hay được xem, được nghe trên các phương tiện thông tin đại chúng chính thống. Các số liệu đẹp đẽ được đưa ra không đủ để khỏa lấp nỗi lo lắng ngày càng tăng của Nhân dân khi lạm phát vào bão giá như con bạch tuộc giơ những chiếc vòi gớm ghiếc vào tận bữa cơm của những gia đình nghèo. Tôi có cảm tưởng sự điều hành của các cơ quan Nhà nước không hề có vai trò gì ở đây, nếu có cũng chỉ là ngụy biện, bịp bợm cho tình trạng ngày càng tồi tệ của nền kinh tế. Các vị đừng lấy bối cảnh của vài chục năm trước ra so sánh với bây giờ để kết luận chúng tôi sướng hơn thế hệ cha anh bởi ai trong chúng tôi cũng hiểu, mức sống cao hơn không có nghĩa là chúng ta sống tốt hơn. Mà ngược lại, với cách điều hành nền kinh tế "tài ba" như hiện nay, các vị đang làm cho đất nước này từ chỗ "rừng vàng biển bạc" trở nên cạn kiệt tài nguyên (tức là không còn gì cho con cháu), ô nhiễm môi trường trầm trọng, phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ nét, xã hội hỗn loạn với đủ các loại tội phạm, thiên tai dịch bệnh hoành hành, tai nạn giao thông trở thành vấn đề thường nhật, y tế và các dịch vụ công thì trì trệ, đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng, tình cảm tốt đẹp giữa người với người đang dần bị thay thế bằng mối quan hệ dựa trên đồng tiền, không ít người dân và gia đình của họ bị bần cùng hóa do chính sách đất đai và hướng nghiệp, biến thành những tên Chí Phèo thời hiện đại… Có người đã nói không ngoa rằng sống ở Việt Nam không khác gì đem số mệnh của mình ra để đánh bạc. Vậy những gì các vị đang tuyên truyền tích cực nào là "kinh tế phát triển nhanh và bền vững", "xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" hay "tình hình trong nước ổn định, yên bình",… không phải là sự bịp bợm thì là gì? Cũng chính nhờ những chính sách điều hành của các vị mà chúng tôi đang được sống trong một đất nước có nền Khoa học – Công nghệ ở hàng dưới đáy của nhân loại mặc dù trí tuệ con người Việt Nam chắc chắn không phải là kém. Tôi từng xấu hổ vô cùng khi phải nói với học trò của mình rằng nền Khoa học kỹ thuật của nước nhà không chế tạo được sản phẩm nào ra hồn, rằng chúng ta đang đi sau chính những nước trong khu vực tới hàng chục năm, còn đi sau những nước phát triển không biết bao nhiêu năm nữa. Bằng chính sách giáo dục như trên đã nói, tôi không hiểu rồi đến bao giờ chúng ta mới có được một nền khoa học – công nghệ và kỹ thuật đủ sức cạnh tranh với họ. Vậy những điều các vị rêu rao về "đi tắt đón đầu", "đi thẳng vào hiện đại",… không là bịp bợm thì là gì? 4. Về quốc phòng – an ninh Là sỹ quan quân đội, tôi có đủ cơ sở để kết luận rằng những chủ trương, chính sách của các vị về quốc phòng – an ninh phần lớn là những chủ trương, chính sách mang tính bịp bợm. Bịp bợm trước hết là bịp bợm về kẻ thù. Trong những năm gần đây, chúng tôi công nhận là với xu hướng hội nhập, chúng ta đang ngày càng thêm bạn bớt thù. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã hết kẻ thù. Việc xác định bạn – thù là một vấn đề hết sức trọng đại, mang tính sống còn để từ đó, xây dựng được chiến lược quốc phòng – an ninh đúng đắn, xác định được mục tiêu của công tác huấn luyện bộ đội cho phù hợp với đặc trưng của đối tượng tác chiến. Thế nhưng, hiện nay các vị đang tính bịp bợm chúng tôi rằng "anh bạn" láng giềng phương Bắc – một "anh bạn" được tô vẽ với những "4 tốt" và "16 chữ vàng" – là một anh bạn đúng nghĩa "môi hở răng lạnh". Nhưng với những gì mà Trung Quốc đang làm mà tôi có thể liệt kê ra đây: + Luôn âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, + Bắt bớ, giam cầm, tra tấn, đòi tiền chuộc (không khác gì cướp biển) đối với ngư dân của ta trên lãnh hải của ta, + Luôn âm mưu phá hoại nền kinh tế của ta, + Âm mưu đồng hóa văn hóa và làm thui chột giống nòi của ta, + Âm mưu bòn rút cạn kiệt tài nguyên của ta, + Can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Đảng và Nhà nước ta thì chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng định, chính Trung Quốc chứ không phải ai khác đang là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với nền quốc phòng – an ninh của ta. Vì vậy, các vị đừng cố tình bịp bợm những người lính chúng tôi về vấn đề này nữa. Bịp bợm tiếp theo là bịp bợm về chính sách đãi ngộ đối với quân nhân. Các vị cho xây dựng trụ sở làm việc hoành tráng (đương nhiên bằng tiền của Nhân dân), phong quân hàm sỹ quan cao cấp búa xua, vô nguyên tắc (chính sách thay đổi xoành xoạch hàng năm) nhằm ru vỗ chúng tôi. Nhưng thực tế thì trụ sở làm việc hoành tráng nhưng lãng phí, vô dụng, không góp phần nâng cao chất lượng công tác mọi mặt trong quân đội. Việc phong quân hàm cho tướng tá không làm cho đời sống của đại đa số sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan chiến sỹ khá hơn mà chủ yếu tạo ra kẽ hở cho việc tham nhũng, chạy chức chạy quyền tràn lan ngay trong một môi trường được xem là kỷ luật nghiêm minh. Đời sống của cán bộ chiến sỹ khó khăn cộng với công tác tuyển dụng, công tác cán bộ – quân lực, công tác đào tạo nhiều bất cập dẫn đến ngày càng có nhiều cán bộ chiến sỹ tha hóa, biến chất, tham gia các tệ nạn xã hội thậm chí trở thành tội phạm nghiêm trọng mà báo chí gần đây đã đưa tin. Đại đa số chiến sỹ sau khi hết nghĩa vụ quân sự trở thành thất nghiệp, lông bông, thậm chí trở thành xã hội đen, tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn của quá trình bần cùng hóa, biến thành những tên Chí Phèo phá hại làng xóm. Các vị còn muốn bịp bợm chúng tôi đến bao giờ nữa? Cuối cùng, việc bịp bợm không chỉ dừng lại ở đó. Thời gian gần đây, các vị đang thực hiện một âm mưu mà tôi cho là độc ác và bạo tàn. Đó là các vị đang muốn biến những người lính của Quân đội Nhân dân anh hùng trở thành những công cụ bạo lực, quay mũi súng chống lại chính đồng bào thân yêu của mình, nhằm phục vụ những mưu đồ ăn cướp của các vị. Tôi xin nói để các vị rõ, chúng tôi từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu. Lý tưởng cao đẹp nhất của chúng tôi là phụng sự Tổ quốc, hiếu thảo với Nhân dân. Lời thề cao nhất mà cán bộ chiến sỹ chúng tôi tâm niệm, cao hơn nhiều so với 10 lời thề chúng tôi vẫn đọc khi chào cờ, đó là: tự bản thân mình, chúng tôi sẽ không làm tổn thương bất kỳ ai. Nhưng nếu có kẻ nào, thế lực nào âm mưu xâm hại đến Tổ quốc của chúng tôi, xâm hại đến Nhân dân chúng tôi thì chúng tôi sẵn sàng bắn thẳng vào đầu chúng mà không bao giờ phải ân hận vì điều đó. Vậy các vị có còn muốn bịp bợm chúng tôi nữa hay thôi? Nếu các vị vẫn còn âm mưu những điều đen tối chống lại Tổ quốc, chống lại Nhân dân, chúng tôi sẽ không ngần ngại quay mũi súng về chính các vị. Nhân dân và Lịch sử sẽ luôn đứng bên chúng tôi. Với tất cả những gì đã nói ở trên, một lần nữa, tôi mong các vị hãy đừng cố gắng bịp bợm chúng tôi thêm nữa. Chúng tôi đã quá rõ bộ mặt thật của các vị rồi và chúng tôi không muốn mình được dắt đi bởi những kẻ vừa MÙ, vừa ĐIẾC mà nhất là lại VÔ LƯƠNG TÂM. Đừng coi thường thế hệ trẻ chúng tôi! (Một bạn đọc xin được giấu tên vì nhiều lý do tế nhị). 24 0 Rate This |
Ghi Chú
CSVN
Nhiễu thông tin vàng độn tạp chất
Chưa thống nhất quan điểm về tạp chất độn trong vàng, song các doanh nghiệp và chuyên gia đều thừa nhận dù là Volfram hay bột kim loại gì đi chăng nữa thì người mua vẫn chịu thiệt thòi nếu bên bán thiếu trung thực. |
Kẻ gian thường trộn tạp chất vào vàng đang nóng chảy. Theo tiến sĩ Lê Quang Huy, kim loại nặng như Osmium, Ruthenium hay Iridium có thể chìm vào trong vàng và khó bị phát hiện. Nhưng Volfram do đặc tính vật lý của nó, thường bị nổi lên trên mặt. |
Tiến sĩ Lê Quang Huy, Trưởng phòng Phát triển thiết bị và phương pháp phân tích của Viện Khoa học Vật liệu (thuộc Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam) cùng đồng nghiệp đã nhận giám định các mẫu bột sau phân kim gửi từ một số đầu mối nguyên liệu ở Hà Nội, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hóa và gần đây là TP HCM. Tất cả đều ở dạng bột mịn, trắng xám, thành phần chính gồm 3 nguyên tố thuộc dòng kim loại nặng gần với nhóm Platin là Osmium, Ruthenium, Iridium.
"Thiết bị ở viện chúng tôi cho phép nhận biết Volfram. Tuy nhiên, tất cả các mẫu đều không cho thấy dấu hiệu của nguyên tố này", ông Huy nói với VnExpress.net.
Theo ông, Volfram có tỷ trọng gần giống vàng, cộng với hiệu ứng sức căng bề mặt, kim loại này khi trộn vào vàng sẽ nổi lên trên. Volfram dễ bị oxy hóa, khi gặp nhiệt độ cao sẽ xỉn màu và dễ dàng bị phát hiện chứ không đến mức qua mặt máy móc và thợ kim hoàn như thông tin Bảo Tín Minh Châu cung cấp.
Hơn 30 năm kinh nghiệm phân tích kim loại quý, ông Huy cho rằng chỉ với hỗn hợp bột Osmium, Ruthenium và Iridium pha trộn theo tỷ lệ nhất định người ta mới làm được vàng giả tinh vi đến thế. Hỗn hợp này có tỷ trọng gấp 1,2 lần vàng, chúng dễ dàng chìm vào bên trong vàng đang trong quá trình nóng chảy. Hơn nữa, chúng rất mịn, lại có màu bạc xám dễ bị át bởi màu sắc của vàng, nên nếu cắt đôi mẩu vàng cũng không phát hiện được.
Cũng thuộc "trường phái" phi Volfram, Tổng giám đốc Tập đoàn Vàng bạc Đá quý DOJI Đỗ Minh Phú cho biết những loại vàng chất lượng thấp dạng cốm, vụn dễ bị trộn hỗn hợp 3 nguyên tố kim loại nặng nói trên. Các cơ sở phân kim thường mua vàng xấu tuổi từ nhiều nguồn khác nhau về xử lý, tách lấy vàng nguyên chất bán cho các doanh nghiệp chế tác. Nếu ham rẻ, mua nguyên liệu trôi nổi, các cơ sở này dễ vướng phải vàng trộn tạp chất.
Tuần trước DOJI đã nhận 2 mẫu từ các đối tác nhờ xét nghiệm, trong đó một túi bột xám sau quá trình phân kim và một miếng nhỏ, cả hai đều chứa Osmium, Ruthenium và Iridium, không có dấu hiệu của Volfram.
Theo ông Phú, 3 nguyên tố kim loại này ở dạng tinh khiết có giá thành khá cao, tương đương một phần ba vàng. Vì thế, nhiều khả năng kẻ gian dùng dạng bột phụ thu sau quá trình tinh luyện Platin. Tỷ lệ độn thường thấy là 10% khối lượng vàng, nếu cao hơn sẽ dễ bị phát hiện.
Cả ông Phú và ông Huy đều phỏng đoán vàng trộn Osmium, Ruthenium và Iridium có xuất xứ Hong Kong, nhập về Việt Nam theo đường biên mậu. Tháng 12 năm ngoái, loại vàng này đã gây chấn động Hong Kong vì mức độ làm giả rất tinh vi, cho dù quy mô chưa lớn. Người ta ước tính chưa đến 100 kg vàng giả kiểu này được tìm thấy tại Hong Kong, và doanh nghiệp thiệt hại nhất cũng chỉ mất khoảng 12.000 USD.
"Không loại trừ khả năng trong nước cũng trộn được hỗn hợp bột đó vào vàng, thậm chí cả nữ trang. Vì thế, mức độ nguy hiểm của loại vàng giả này còn lớn hơn loại trộn Volfram", ông Phú nói.
Tungsten Fake Goldbar, một dạng thỏi vàng chứa Volfram được nói đến nhiều từ đầu năm 2010 và cũng trùng với thời gian loại vàng này xuất hiện ở Việt Nam. |
Dù không nhận được ý kiến đồng thuận của nhiều nhà khoa học trong nước, đến nay những người thuộc trường phái Volfram vẫn bảo lưu quan điểm của mình. Tổng giám đốc Tổng công ty Vàng Agribank Nguyễn Thanh Trúc, người cũng từng được đào tạo bài bản và nhiều năm nghiên cứu kim loại quý, cho rằng để kết hợp mà không làm thay đổi tỷ trọng, kích thước của thỏi vàng chỉ có thể là Volfram. Kim loại này rất rẻ, nên bằng các chiêu thức độn tinh vi, kẻ gian kiếm siêu lợi nhuận.
Vàng lõi Volfram được phát hiện cuối năm 2009 tại một pháo đài quân sự của Mỹ với số lượng gần 6.000 thỏi loại 400 ounce, tạo nên cơn sốt trong giới kinh doanh vàng. Đến 2010, người ta nói nhiều tới loại vàng Volfram mới với tên gọi Tungsten Fake hay Tungsten Gold Plated, trùng với thời gian loại vàng này xuất hiện tại Việt Nam. Thậm chí người ta còn làm clip dẫn chứng cả công đoạn nấu thỏi vàng chứa Volfram tại một ngân hàng lớn trên thế giới. (xem clip)
Với 3 nguyên tố Osmium, Ruthenium và Iridium, ông Trúc cho rằng chúng thường được pha chế vào trang sức theo những công thức nhất định để tạo ra sản phẩm đặc thù của từng doanh nghiệp, chứ không nhằm mục đích ăn gian tuổi vàng hay chất lượng vàng nguyên chất.
Ông Nguyễn Văn Lộc, Tổng giám đốc Công ty OTEC (chuyên cung cấp thiết bị chuyên dùng cho ngành sản xuất nữ trang và vàng miếng) cho rằng vàng trộn Volfram hiện nay tinh vi hơn nhiều so với loại trộn hỗn hợp Osmium, Ruthenium và Iridium. Thay vì chỉ dùng lõi Volfram như trước đây, giờ kẻ gian đã dùng cả dạng bột và hạt để giấu vào giữa cục vàng.
Dễ bị độn nhất là loại vàng ký có độ dày lên tới hàng centimet, các máy giám định thông thường khó có thể phát hiện Volfram nằm bên trọng thỏi vàng. Vàng miếng loại một vài lượng, độ dày chưa đầy 2mm rất khó làm giả vì Volfram sẽ bị lộ ngay. Trong khi đó, Volfram hoàn toàn không thể trộn được vào trang sức, ông Lộc khẳng định.
Hiện người tiêu dùng trong nước chưa có cơ hội kiểm chứng xem quan điểm Volfram hay phi Volfram đúng. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi thấy doanh nghiệp hào hứng khẳng định sự tồn tại của vàng bẩn trên thị trường, cho dù thông tin này có thể ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, bỏ qua nghi vấn PR hay đánh bóng thương hiệu theo kiểu sự cố, những thông điệp mà doanh nghiệp vàng bạc để "lộ" ra suốt hai tuần qua cũng khiến người tiêu dùng cẩn trọng hơn khi mua vàng miếng hay nữ trang. Nếu như cả hai quan điểm đều đúng, trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện cả loại vàng ký độn Volfram và vàng phân kim chứa cùng lúc cả Osmium, Ruthenium và Iridium. Cũng không loại trừ khả năng hỗn hợp 3 kim loại nặng này có thể xuất hiện trong nữ trang.
Tiến sĩ Lê Quang Huy thuộc Viện Khoa học Vật liệu tâm sự lúc mới có kết quả giám định, cơ quan ông chỉ định khuyến cáo riêng cho doanh nghiệp để họ cảnh giác. Nhưng sau khi có nhiều thông tin trái chiều, ông phải lên tiếng để mọi người hiểu rõ và có phương pháp phân biệt, xử lý.
"Ai dám chắc doanh nghiệp lỡ mua vàng bẩn rồi sẽ chịu lỗ một mình cất trong kho mà không tuồn ra thị trường", ông Huy trăn trở.
Tổng giám đốc DOJI Đỗ Minh Phú thừa nhận người tiêu dùng khó lòng biết chính xác hàm lượng cũng như chất lượng vàng nếu như bên bán không trung thực. Theo ông, các máy móc hiện nay ở Việt Nam hoàn toàn cho phép nhận biết các tạp chất dù là Volfram, hay Osmium, Ruthenium và Iridium, tuy nhiên kết quả giám định lại phụ thuộc rất nhiều vào thao tác và chế độ hoạt động của máy.
Cùng một mẩu vàng độn tạp chất mà DOJI thu được và đem đi kiểm nghiệm, khi cho máy chạy theo chương trình thông thường, kết quả thu được là hàm lượng vàng chiếm trên 99%. Nhưng khi máy hoạt động theo chương trình phức tạp hơn, cho phép nhận biết thêm nhiều nguyên tố, thì hàm lượng vàng chỉ chiếm 74%, phần còn lại là Osmium, Ruthenium, Iridium và một số kim loại khác.
"Mua vàng thực chất là đi mua chữ tín, mua bằng niềm tin. Máy móc chuẩn xác, nhưng nếu nhân viên giám định cố tình thao tác theo mục đích riêng thì người tiêu dùng khó lòng phát hiện", ông Phú nói.
Người tiêu dùng có thể kiểm tra chất lượng vàng: - Miếng vàng trộn hỗn hợp Osmium, Ruthenium và Iridium, bề mặt vẫn bóng nhẵn, nhưng lật mặt dưới sẽ thấy lợn gợn, sần sùi. Nếu là nhẫn, quan sát kỹ bên trong sẽ thấy rỗ hoặc sần sùi. - Vàng miếng chứa Volfram có thể dùng phương pháp xì điểm để phát hiện, bởi ở nhiệt độ cao Volfram dễ bị oxy hóa, chuyển thành màu xám và nổi lên bề mặt. Thỏi vàng chứa Volfram có thể bị phát hiện nếu chặt nhỏ hoặc nấu thử, phân kim. Tiếng kêu của vàng Volfram khi gõ vào vật cứng khác trong hơn vàng thật. |
Song Lin
h
h
Ghi Chú
XaHoi - TeNan - LuaDao
Tàu Trung Quốc ngang ngược vi phạm lãnh hải Việt Nam
Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia VN (PVN) Đỗ Văn Hậu cho biết sáng 26/5, các tàu hải giám Trung Quốc đã vi phạm lãnh hải thuộc chủ quyền của VN, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN.> Tìm giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông / Việt Nam yêu cầu bỏ 'đường lưỡi bò'Ông Hậu cho biết thực hiện kế hoạch PVN đã phê duyệt chương trình thăm dò khai thác dầu khí năm 2011, doanh nghiệp thành viên - Tổng công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí, một thành viên của PVN, đã cử tàu địa chấn Bình Minh 02 triển khai khảo sát địa chấn tại khu vực lô 125, 126, 148, 149 ở thềm lục địa miền Trung của Việt Nam. Cả 4 lô này đều nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tàu địa chấn Bình Minh 02 đã khảo sát hai đợt tại đây, đợt 1 vào năm 2010 và đợt 2 bắt đầu từ ngày 17/3/2011. Quá trình khảo sát những ngày vừa qua được tiến hành trôi chảy và tàu Bình Minh đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, vào lúc 5h5 ngày 26/5, rađa tàu địa chấn Bình Minh 02 đã phát hiện có tàu lạ đang chuyển động rất nhanh về phía khu vực khảo sát. Sau đó 5 phút thì phát hiện tiếp 2 tàu nữa đi từ phía ngoài vào. Đó là ba tàu hải giám của Trung Quốc chạy thẳng vào khu vực khảo sát mà không có cảnh báo.
Trên cơ sở tốc độ di chuyển của tàu hải giám Trung Quốc, tàu Bình Minh thấy có khả năng sẽ ảnh hưởng đến thiết bị của tàu nên đã quyết định hạ thấp thiết bị để tránh thiệt hại. Vào lúc 5h58, tàu hải giám Trung Quốc đã chủ động chạy qua khu vực thả dây cáp, cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02. Vị trí mà ba tàu hải giám Trung Quốc phá hoại thiết bị của tàu Bình Minh 02 của PVN, chỉ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) khoảng 120 hải lý, nằm hoàn toàn trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ông Hậu cho biết thêm ba tàu Hải giám Trung Quốc đã làm ảnh hưởng, cản trở hoạt động bình thường của tàu địa chấn Bình Minh 02. Sau đó tiếp tục uy hiếp tàu Bình Minh 02 và thông báo là tàu Bình Minh đã vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Nhưng tàu Bình Minh của PVN cương quyết bác bỏ luận điệu của tàu hải giám Trung Quốc và khẳng định rằng tàu Bình Minh đang nằm trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc tiếp tục công việc ngay lúc đó của tàu Bình Minh 02 vẫn bị ba tàu Hải giám Trung Quốc cản trở cho tới 9h sáng 26/5 khi 3 tàu này rời khỏi khu vực khảo sát. Tàu Bình Minh 02 và các tàu bảo vệ đã phải dừng công việc trong ngày 26/5 và thu lại các thiết bị bị hỏng để sửa chữa. Dưới sự chỉ đạo của PVN và Tổng công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí, tàu Bình Minh 02 đã sửa chữa thiết bị tại chỗ và tới 6h sáng 27/5, tàu Bình Minh 02 đã trở lại hoạt động. Phó tổng giám đốc PVN khẳng định việc các tàu hải giám Trung Quốc vào rất sâu trong lãnh hải của Việt Nam để phá hoại, cản trở các hoạt động thăm dò khảo sát bình thường của PVN là một hành động hết sức ngang ngược, vi phạm trắng trợn đối với quyền chủ quyền của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế và cản trở hoạt động của PVN. PVN đã báo cáo và đề nghị Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có các biện pháp phản đối mạnh mẽ nhất có thể đối với phía Trung Quốc; yêu cầu phía Trung Quốc dừng ngay các hành động cản trở hoạt động của PVN. Đồng thời hỗ trợ PVN thực hiện nhiệm vụ thăm dò, khai thác của mình. Tập đoàn PVN cũng khẳng định các công việc khảo sát địa chấn ở khu vực này sẽ được tiến hành bình thường vì đây là khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam. PVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để bảo đảm cho hoạt động của tàu Bình Minh 02 được hiệu quả, an toàn. Tàu địa chấn Bình Minh 02 được PVN đầu tư trang bị từ năm 2008 và đã tiến hành các đợt khảo sát trên vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền của Việt Nam. (Theo TTXV N |
Công Hàm Bán Nước của Phạm Văn Đồng 14/9/1958
Trung Cộng Thêm Hình Hầu Hết Biển Đông Trong Hộ Chiếu Mới Phát Hành
Thái độ ứng sử của Việt Nam là gì?
Đại tá Lương Văn Sơn, phó giám đốc công an cửa khẩu tỉnh Lào Cai, cho biết công dân Trung Quốc mang hộ chiếu mới vẫn được nhập cảnh vào Việt Nam, nhưng giới hữu trách sẽ đóng dấu cấp thị thực visa cho họ vào các trang giấy riêng. Như vậy là hộ chiếu có hình lưỡi bò của Trung Quốc vẫn ngang nhiên đi vào Việt Nam? In và cho phép họ vào VN như vậy là quá nhu nhược. Quý vị nghi sao?
Việt Nam đã quên đi những động thái ngông cuồng của TQ tại VN rồi sao? TQ giết chết ngư dân VN trên biển VN, TQ cắt cáp VN trên vùng biển VN, TQ lập ra tp Tam Sa, và nhiều chuyện khác nữa. NHƯNG ... VN chỉ dám gọi họ là tàu lạ! Sao chính quyền VN lại có động thái hèn yếu như vậy.
Trung Quốc tiếp tục có hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam khi cho xuất bản cái gọi là “bản đồ chính thức đầu tiên của thành phố Tam Sa” hôm 24-11. Tân Hoa Xã rêu rao rằng bản đồ này tập hợp hình ảnh chụp từ vệ tinh và từ trên không toàn bộ khu vực biển Đông. Nó hiển thị vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ranh giới hành chính của cái gọi là “thành phố Tam Sa” và vị trí các đảo ở biển Đông.
Đây là động thái khiêu khích mới nhất của Trung Quốc nhằm phục vụ mưu đồ độc chiếm biển Đông, đi ngược lại cam kết “bảo vệ hòa bình và ổn định” ở khu vực này mà Bắc Kinh không ít lần đưa ra. Cái gọi là “thành phố Tam Sa” (đơn vị hành chính bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) được Trung Quốc ngang nhiên thành lập trái phép vào tháng 7-2012, bất chấp sự phản đối của phía Việt Nam cũng như cộng đồng quốc tế.
"Tầu chệt Đại Hán Mác Lê Nin sẽ đưa tầu chiến và hàng không mẫu hạm đến bờ biển Phan Thiết, Quảng Ngải và Khánh Hòa/Nha Trang, nơi chúng nó cắt cab tầu Bình Minh của VC, thì nhà nước VC làm cái gì? Một nhà nước hèn nhác, phản quốc, nô lệ Tầu phù, áp bức, giết dân... đến cả cô bé Phương Uyên 20 tuổi nhỏ nhoi, yếu đuối cũng bị VC bỏ tù vì yêu nước mà chống Tầu... thì lấy cái chi bảo vệ tổ quốc?" (Hải Triều - Nhóm Nhà Văn Quân Đội)
Ngày 14/9/1958, Trung Cộng ra một bản tuyên bố và một bản đồ "9 gạch" tự ấn định chủ quyền trên một vùng rộng lớn ở biển đông, trong đó có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Phạm Văn Ðồng, lúc đó là thủ tướng Bắc Việt, đã vội vàng viết một công hàm tán thành quyết định của Trung Cộng. Ðây là một công hàm bán nước mà cho tới ngày nay, Trung Công vẫn tiếp tục dựa vào công hàm này để khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Dưới đây là nguyên văn bản công hàm của Phạm Văn Ðồng.
THỦ TƯỚNG PHỦ NƯỚC
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Thưa Ðồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Ðồng chí Tổng lý rõ :
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/58, của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể
Chúng tôi xin kính gởi Ðồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
Phạm Văn Ðồng (ấn ký)
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
Phạm Văn Ðồng (ấn ký)
Thủ tướng Chính phủ
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa
Kính gửi :
Ðồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quân vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh
Ðồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quân vụ viện
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh
Báo Nhân Dân 1958 Đăng Tin Công Hàm Bán Nước
Hầu hết chúng ta đều thấy copy bản Công Hàm do Phạm Văn Đồng thừa lệnh Hồ Chí Minh ký ngày 14 tháng 9, 1958, để gửi Chu Ân Lai. Một bằng chứng nữa để thấy rõ tội của tập đoàn Đảng Cộng Sản Việt Nam trước việc dâng Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng.
Báo Nhân Dân là tiếng nói chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam (vào 1959 được ẩn dưới danh xưng Đảng Lao Động).
Nhìn kỹ vào trang báo trên một bản tin có ghi "Sáng qua, 21-9-1958, tại quảng trường..." Vậy tờ báo này ra ngày 22 tháng 9, 1958.
Phía dưới góc tay mặt có bản tin về Công Hàm (ngay mũi tên) liên quan tới việc Đảng Cộng Sản Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào ngày 4 tháng 9, 1958, Bắc Kinh tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Bản tuyên bố viết rằng "Điều khoản này áp dụng cho toàn thể lãnh thổ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, gồm các vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Cộng."
Mười ngày sau, tức ngày 14 tháng 9, 1958, thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng ký một Công Hàm chấp nhận điều khoản trên của Trung Cộng.
Như trên ta thấy, tám ngày sau, 22 tháng 9, 1958, báo Nhân Dân tại Hà Nội loan tin. Nhà báo đã đánh máy nguyên văn bản Công Hàm. Tuy nhiên khi nhìn kỹ lại thì thấy ngày tháng ký tên ở dưới thư đề bằng tay. Do vậy, ta có thể kết luận Đảng đã thảo sẵn văn thư này trước, và ngày ký là 14 tháng 9, 1958. Bản gửi cho báo Nhân Dân khác với bản chính thức gửi Chu Ân Lai. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bản tin:
Phía dưới góc tay mặt có bản tin về Công Hàm (ngay mũi tên) liên quan tới việc Đảng Cộng Sản Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
Vào ngày 4 tháng 9, 1958, Bắc Kinh tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Bản tuyên bố viết rằng "Điều khoản này áp dụng cho toàn thể lãnh thổ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, gồm các vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Cộng."
Mười ngày sau, tức ngày 14 tháng 9, 1958, thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Đồng ký một Công Hàm chấp nhận điều khoản trên của Trung Cộng.
Như trên ta thấy, tám ngày sau, 22 tháng 9, 1958, báo Nhân Dân tại Hà Nội loan tin. Nhà báo đã đánh máy nguyên văn bản Công Hàm. Tuy nhiên khi nhìn kỹ lại thì thấy ngày tháng ký tên ở dưới thư đề bằng tay. Do vậy, ta có thể kết luận Đảng đã thảo sẵn văn thư này trước, và ngày ký là 14 tháng 9, 1958. Bản gửi cho báo Nhân Dân khác với bản chính thức gửi Chu Ân Lai. Chúng tôi xin ghi lại nguyên văn bản tin:
Bản tin được phóng lớn
CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC
Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tại Trung-quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đã chuyển bức công hàm sau đây của Chính phủ ta:
Thưa đồng chí Chu Ân-lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa,
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
DECLARATION OF THE GOVERNMENT OF THE PEOPLE'S REPUBLIC OF CHINA ON THE TERRITORIAL SEA
(Approved by the 100th Session of the Standing Committee of the National People's Congress on 4th September, 1958)The People's Republic of China hereby announces:
(1) This width of the territorial sea of the People's Republic of China is twelve national miles. This provision applies to all Territories of the People's Republic of China, including the mainland China and offshore islands, Taiwan (separated from the mainland and offshore islands by high seas) and its surrounding islands, the Penghu Archipelago, the Dongsha Islands, the Xisha islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
(2) The straight lines linking each basic point at the mainland's coasts and offshore outlying islands are regarded as base lines of the territorial sea of the mainland China and offshore islands. The waters extending twelve nautical miles away from the base lines are China's territorial sea. The waters inside the base lines, including Bohai Bay and Giongzhou Strait, are China's inland sea. The islands inside the base lines, including Dongyin Island, Gaodeng Island, Mazu Inland, Baiquan Island, Niaoqin Island, Big and Small Jinmen Islands, Dadam Island, Erdan Island and Dongding Island, are China's inland sea islands.
(3) Without the permit of the government of the People's Republic of China, all foreign aircrafts and military vessels shall not be allowed to enter China's territorial sea and the sky above the territorial sea.
Any foreign vessel sailing in China's territorial sea must comply with the relevant orders of the government of the People's Republic of China.
(4) The above provisions (2) and (3) also apply to Taiwan and its surrounding islands, the Penghu Islands, the Dongsha Islands, the Xisha Islands, the Zhongsha Islands, the Nansha Islands and other islands belonging to China.
Taiwan and Penghu are still occupied with force by the USA. This is an illegality violating the People's Republic of China's territorial integrity and sovereignty. Taiwan and Penghu are waiting for recapture. The People's Republic of China has rights to take all appropriate measures to recapture these places in due course. It is China's internal affairs which should not be interfered by any foreign country.
Trích từ nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải
(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc
(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)
Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
|
|
DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)
Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm Bán Nước
Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng SaSaigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam
Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam chẳng hạn
Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .
Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.
Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.
Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. "Trong thời gian này", họ nói, "có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974."
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.
Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên "quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký "Phủ Biên Tập Lục" của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là "Không gian sinh tồn", bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?
3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.
Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.
Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .
Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam, cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả cái chính quyền tại Hà Nội.
Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung Quốc sau một vụ đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung Quốc đánh bại những người tự bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.
Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào, một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng của Hà Nội khi quân đội Trung Quốc chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.
Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Mỹ, vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .
Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam. Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung Quốc vào năm 1974 (chỉ vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.
Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ hồi đó, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. "Trong thời gian này", họ nói, "có những tình trạng rắc rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974."
Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.
Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung Quốc Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính quyền của miền Bắc.
2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo
Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên "quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" dựa trên các tài liệu xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký "Phủ Biên Tập Lục" của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung Quốc gọi là Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992, nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.
Lý do chính để Trung Quốc làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế hoạch gọi là "Không gian sinh tồn", bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung Quốc bắt đầu bằng phần dễ nhất – là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung Quốc căn cứ vào một sự thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày 30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung Quốc và làm chậm trễ vụ tranh chấp này đến 50 năm. Có phải là Trung Quốc có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá khứ của Lê Ðức Anh?
3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói không.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".
Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc như theo sau:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn" bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
"Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy"."
Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn "Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt" của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: "Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc" (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc."
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở trang số 11:
"Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy"."
Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
4) Trong cuốn "Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt" của Pao-min-Chang thuộc tủ sách The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung Quốc lẫn sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: "Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc" (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far East Economic Review 16/3/1979, trang 11).
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
5) Tại sao ?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994] :
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc."
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc
|
|
Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)
Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có thể sẽ đến bất cứ từ đâu.Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế giới, bạn cũng như thù, rằng:
Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần đảo này.
Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.
Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.
Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi vì những điều thực tế.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần lãnh thổ nào của quốc gia.
Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974
Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
Vào ngày 30/7/1979, Trung Quốc đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam tuyên bố:
1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.
2. Sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.
3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam. Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung Quốc lúc đó vẫn duy trì quan hệ hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.
4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung Quốc đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:
- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.
5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề
6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung Quốc đã xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía Trung Quốc lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung Quốc vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979
Bộ Ngoại giao Trung Quốc diễn giải về Công Hàm Bán Nước
|
Công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Trường Sa5. Việt Nama) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung quốc tại Việt Nam đã nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống"b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958 về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày 14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải"c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa .
Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc
Subscribe to:
Posts (Atom)