1000 NĂM THĂNG LONG - NGÀY ĐẠI LỄ
Tháng Bảy, mùa thu: Ngày Đại Lễ,
Thăng Long, Thái Tổ #1 dựng kinh đô.
Là nơi đô hội trông bề thế
Hoành tráng vô cùng một đế đô.
Hưng phế, thăng trầm qua mấy bận,
Non sông Đại Việt vững như trồng.
Đuổi quân xâm lược: Mông, Thanh, Hán,
Khắp nẽo Nam thùy, chúng bại vong.
Mãi mãi, ngàn sau lưu sử sách,
...Lý, Trần, Lê (Hậu), Nguyễn #2 đuổi xâm lăng.
Tống thua, Mông lại càng tươm rách,
Vó ngựa ba lần cũng nát tan.
Chu Đệ nghe tin Hồ (Quý Ly) thoán đoạt,
Thừa cơ trưng chuyện giúp vua Trần #3
Chu Năng thống lĩnh, quân ồ ạt
Đánh thắng Hồ (Quý) Ly, chiếm nước Nam.
Hành hạ muôn dân bằng thú tính,
Để hòng ngự trị đất phương Nam.
Đâu hay hồn phách tan từng mảnh,
Chuốc nhục mang về thậ oái oăm.
Mấy trận phơi thây chưa khiếp đỡm
Đến khi cùng quẩn lại xin hàng.
Vương Thông như thế còn chưa tởn,
Miệng nói xin hòa, lén viện quân.
Lệ Lợi một lòng đi cứu nước
Quyết tâm đại định mảnh cơ đồ.
Thư hùng mấy trận: sau như trước,
Cho giặc không còn trong ước mơ...
Đại Đế Quang Trung năm Ất Dậu (1789),
Bảy ngày thần tốc chiếm Thăng Long.
Khiến Tôn Sĩ Nghị càng ngơ ngáo,
Ân soái chẳng cần lúc bại vong.
Vinh nhục, Càn Long đều lãnh đủ,
Bao nhiêu tướng sĩ chết, tan hàng.
Triều Thanh từ đấy lòng lo sợ,
Đại Đế phi thường của nước Nam.
Tiếc mệnh Thái Dương (*), mây phủ kín
Thăng Long, thành quách mãi trông chờ.
Cơ đồ gặp phải cơn nguy biến,
Đại Đế đâu rồi, hỡi đế đô?
Ý nghĩa: Thăng Long, Ngày Đại Lễ,
1000 Năm chiến tích, một cơ đồ.
Muôn dân tề tụ nghe văn tế,
Kỷ niệm Ngàn Năm dựng đế đô.
***
Đâu phải rước Tầu, dâng hải phận,
Cho thuê rừng núi, bán biên thùy.
Tây Nguyên bao phủ màu tang, hận,
Một mảnh cơ đồ tan nát thay!!!
Vĩnh Nhất Tâm 1.10.2010
(*) Thái Dương: Chỉ mặt trời tức là chỉ Đại đế Quang Trung Nguyễn
Huệ.đã sớm ra người thiên cổ.
Đôi lời của tác giả qua Dòng Thơ:
1000 NĂM THĂNG LONG - NGÀY ĐẠI LỄ, thay cho lời chú thích về những
trang sử oanh oanh liệt liệt của Tiền Nhân qua từng triều đại tính từ
sau ngày Hoàng Đế Lý Thái Tổ lên làm vua và dời kinh đô từ Hoa Lư về
Thăng Long. Chúng tôi (Vĩnh Nhất Tâm) đặc biệt xin trân trọng gửi đến
hết thảy các bạn Thanh Niên, Sinh Viên và Học Sinh trong và ngoài nước
rõ thêm về ý nghĩa của Ngàn Năm Thăng Long. Tuyệt đối là khác hẳn với
cái tên gọi: "Lễ Hội Thăng Long" của Bắc bộ phủ, đã không những làm cho
vừa lòng bọn quan thầy Hán Cộng tức Tàu Cộng (nếu không muốn nói là bọn
nô lệ của con cháu Mã Viện) một cách xuẫn động bằng những hành vi thật
lố bịch. Và còn tốn kém một cách hết sức vô nghĩa, khi đa số người dân
khắp ba miền cơm ăn chưa đủ no, và áo mặc chưa đủ ấm. Phải nói là vô
tiền khoáng hậu về cả hai mặt tinh thần và vật chất xuyên suốt trong
dòng sử Việt chưa từng xãy ra, dù tệ mạt và hèn nhát như Mạc Đăng Dung,
hay Lê Chiêu Thống vẫn chưa đến nổi như thế:
#1 Lý Thái Tổ lên làm vua, Ngài dời kinh đô từ Hoa Lư về La Thành, vì
Hoa Lư chật hẹp. Lúc bấy giờ là tháng Bảy vào mùa Thu, năm Thuận Thiên
(1010), thì tiến hành việc dời đô và khi tới La Thành, Ngài tuyên bố
thấy rồng vàng xuất hiện nên đổi La Thành, là Thăng Long thành.
Sau hơn 60 năm, những vị Hoàng Đế lên ngôi phát triển và giữ nước tiếp
theo sau Lý Thái Tổ đều không quên rằng; Bắc triều dù bất cứ thời đại
nào hay tình huống nào cũng không ơ thờ hay quên lãng, vì bọn chúng lúc
nào cũng ẩn hiện một sự đe dọa chờ đặt nền đô hộ để thống trị cũng là
kinh nghiệm trong dòng sử đã từng xãy ra không ngừng nghỉ. Đó là dòng
máu thực dân phương Bắc.
Hoàng đế đời thứ tư của triều đại Nhà Lý, tức là Hoàng Đế Lý Nhân Tông.
Khi Hoàn Đế Lý Thánh Tông băng hà, thì Hoàng thài tử Càn Đức còn nhỏ,
nên Bà Ỷ Lan Nguyên Phi (Mẹ ruột) của Hoàng-thái tử Càn Đức được giữ
vai trò Nhiếp chính, cùng lúc đó tức là năm 1076, nhà Tống đã âm mưu
toan tính và chuẩn bị cho một kế hoạch Nam chinh. Tất cả đình thần Nhà
Lý tính suy đường lợi hại, và đều đồng ý và giao cho Thái Úy Lý Thường
Kiệt chỉ huy mặt đường thủy và Tướng-quân Tôn Đản chỉ huy mặt đường bộ
để Bắc tiến vào 18-1-1076, tiến công đánh ba châu. Mục tiêu đánh ba
châu: Khâm, Liêm và Ung của triều Lý, là phá tan kế họach Nam chinh của
vua Tống Thần Tôn và Tể tường Vương An Thạch của nhà Tống. Cả ba thành
trì nói trên đều tan vỡ, rồi lui quân về phòng thủ vào ngày 1 tháng 3
năm1076, để chuẩn bị cuộc đối đầu khi quân nhà Tống sang phục thù rửa
hận.
Đúng vào năm sau, sự phục thù của nhà Tống, đã thực hiện vào năm Đinh
Tị (1077), cũng bị quân Đại Việt chận đứng giặc Tống bên bờ sông Như
Nguyệt. Cả hai đại quân, nhà Tống và Đại Việt chưa ai phân thắng bại,
vì trong thâm tâm của tướng soái lẫn vua Tống tự ái với danh hảo "thiên
triều", nên đợi Đại Việt cầu hòa mới chịu. Riêng đối với triều đại Nhà
Lý, lấy sự bảo vệ về mặt an dân và vẹn toàn lãnh thổ là thượng sách,
nên triều Lý đã không ngần ngại sai sứ sang cầu hòa. Nhà Tống chịu ngay
không một mảy may nào do dự, và âm thầm lui quân và giữ lại châu Quảng
Nguyên, mà bọn chúng đã chiếm được làm kế nghị hòa. Sau cuộc nghị hòa.
Nước Tầu dù muốn hay không muốn cũng sống trong tinh thần hòa khí sau
khi thương nghị hoàn tất của tình lân bang với nhau từ đó.
#2 Từ khi Thành Cát Tư Hãn và đời sau của Thành Cát đã thực sự làm chủ
nước Tàu và gần nửa phần thế giới từ Á qua Âu. Một đế quốc lớn nhất đối
với lịch sử loài người trên hành tinh này ở vào lúc bấy giờ được sách
sử thế giới ghi lại không riêng gì nước Đại Việt hay sử nước Tầu.
Khi Mông Cổ thôn tính sắp xong nước Tầu, Hốt Tất Liệt đánh nước sau
cùng là Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam) để quy nước Tầu về một mối. Và đồng
thời tướng quân của Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang bảo vua
nước Nam phải thần phục Mông Cỏ. Hoàng Đế Trần Thái Tông không những
không thần phục mà còn nhốt ba sứ Mông vào ngục. Và những yêu sách của
vua Mông Cổ đều không được vua nước Đại Việt đoái hoài tới. Chính vì
lẻ đó, Mông Cổ đem quân định san bằng nước Đại Việt, nhưng cả ba lần,
quân Mông Cổ sang xâm lược nước ta đều thất bại:
- Cuộc xâm lăng lần thứ nhất năm Đinh Tị (1257).
- Cuộc xâm lăng lần thứ hai vào tháng Chạp năm Giáp Thân (1284) bước
sang năm Ất Dậu (1285).
- Cuộc xâm lăng lần thứ ba khởi đi từ tháng 6 năm Bính Tuất (1286),
giặc Nguyên sửa soạn việc trả thù Đại Việt vào cuộc xâm lăng lần thứ
hai với nửa triệu quân (500 ngàn quân) bị thua một cách thảm thiết. Tức
vào ngày 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (1287), Mông Cổ bắt đầu chuyển quân đến
các tỉnh dọc biên giới theo từng đạo. Cuộc xâm lược bắt đầu xung trận
với quân Đại Việt ta vào 23 tháng tháng Chạp, dưới sự tổng chỉ huy quân
đội của Mông Cổ, cũng là do Thái tử Thóat Hoan, mà Nguyên gọi là Trấn
Nam Vương với 30 vạn quân và ban tham mưu.
Nước Đại Việt ta vẫn do Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh
quân đội của nước Đại Việt, chận đứng được quân xâm lăng Mông Cổ lần
thứ ba. Cuộc chiến được kết thúc một cách oanh oanh liệt liệt, bắt
nguồn từ tinh thần bất khuất của toàn dân, toàn quân cho sự tồn vong
của nòi giống Việt, vẹn toàn lãnh thổ và nền độc lập của nước Nam. Trải
qua biết bao nhiều cuộc khởi nghĩa và triều đại khởi đí từ cuộc Cách
Mệnh của Hai Bà Trưng, đầu tiên trong dòng sử Việt ...đến nền độc lập
được Vương Ngô Quyền đánh dấu bằng cuộc thủy táng trăm ngàn quân Nam
Hán của Thái tử Hoằng Thao tại Bạch Đàng Giang. Tiếp theo sau qua từng
triều đại từ (Tiền) Lê, (Hậu) Lý, Trần, (Hậu) Lê, và Nguyễn Tây Sơn tức
Đại Đế Quang Trung Nguyễn Huệ. Dù ở bên nách một nước khổng lồ không
ngưng việc bành trướng trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi, vì đối với
Bắc triều trong bất kỳ thời đại nào, cũng vẫn luôn luôn lợi dụng thời
cơ dưới mọi hình thức từ hèn nhát đến óc vọng ngoại để đạt cho bằng
được một nền đô hộ để thống trị phương Nam (tức nước Nam ta), là con
đường duy nhất và bất di bất dịch của Tầu, xuyên suốt mấy ngàn năm cho
đến ngày nay. Ngoại trừ nước Tầu trở về nguyên thủy của từng nước có
nền tự trị riêng như Liên Bang Sô Viết vào thập niên 90, thì sự bành
trướng của Hán tộc mới chấm dứt được.
#3 Hồ Quý Ly đã nhân cơ hội quá nhu nhược của Thượng-hoàng Trần Nghệ
Tông, mà thoán đoạt được ngôi vua nhà Trần vào năm 1400, lập nên triều
đại Nhà Hồ. Trong khoảng thời gian chưa được 7 năm trị vì, thì bị nhà
Minh bên Tầu sang xâm lăng dưới chiêu bài "phù Trần diệt Hồ ". Nước Đại
Việt (Hồ Quý Ly đổi quốc hiệu là Đại Ngu khi ông lên làm vua) mất vào
tay nhà Minh, dưới thời Nhà Hồ tức Hồ Quý Ly.
Sau khi nhà Minh đô hộ nước Đại Việt ta, đã có nhiều phong trào đuổi
Minh phục Trần. Và đến lúc Bình Định Vương Lê Lợi xuất hiện từ ngày Hội
Thề Lũng Nhai ra đời, và sau đó cùng với Mưu-thần Nguyễn Trãi (Bình
định Vương Lê Lợi gặp Nguyễn Trãi tại Lội Giang) đã xoay chuyển thế
cuộc trong vòng 10 kháng chiến. Cuộc kháng chiến bắt đầu vào năm Đinh
Dậu (1413) đến tháng Chạp năm Đinh Vị (1428), cuộc kháng chiến đánh
đuổi giặc Minh đã hoàn thành. Tổng binh của nhà Minh là Vương Thông xin
đầu hàng, chấp nhận sự hòa giải với Bình Định Vương Lê Lợi. Vua nhà
Minh lại an ủi cho hàng tướng nắm vai thống lĩnh đại quân của nhà Minh
là Vương Thông với câu: "... ban sắc dụ trả nước An Nam, và khuyên giữ
lệ triều cống khoảng năm Hồng Vũ (niên hiệu của Minh Thành Tổ
(1368-1398)". (Việt Sử Tân Biên của Sử-gia Phạm Văn Sơn).
#4 Vào thời Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xuất hiện, là thời đại đen tối
nhất của dòng chúa Nguyễn tức là vào thời con của chúa Nguyễn Phúc
Khoát (tức Nguyễn Phúc Thuần) lên thay thế khi Nguyễn Phúc Khoát qua
đời, cũng đã báo hiệu một thời kỳ suy vong, khi quyền thần Trương Phúc
Loan đã tạo nên cảnh hết sức tệ hại đối người dân trong hoàn cảnh thật
nghèo khổ và đến nổi chết đói đã lan tràn khắp thôn quê tới thành thị
của các tỉnh miền Trung.
Vào lúc bấy giờ vận mệnh đất nước và số phận của con dân nước Đại Việt
được hưởng một luồng sinh khí thật mới mẻ như của cơ trời đã đặt để.
Ba anh em là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ thực hiện cuộc cách
mệnh dẹp tên quyền thần Trương Phúc Loan chuyên nghề bóc lột người dân
từ thôn quê đến thành thị như để cứu nguy nạn cướp bóc là một ung nhọt
ghê tởm của bọn quyền thần Trươg Phúc Loan đưa hoàn cảnh xã hội lúc bấy
giờ hết sức thê thảm, và bên cạnh là thay thế dòng Gia Miêu (chỉ dòng
chúa Nguyễn xuất thân từ Gia Miêu).
Từ đó, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tiếp tục cuộc hành trình là bình Nam,
chỉnh Bắc và xóa bỏ sông Gianh để thống nhất sơn hà, đó là nét son
chói rạng trong dòng lịch sử của nước Đại Việt.
Cũng chính vào thời điểm lúc bấy giờ, sau khi Mãn Thanh ở thời vua Càn
Long, là thời kỳ hoàn chỉnh hầu như là mọi mặt khi Mãn Thanh đã chiếm
được nước Tầu qua mấy đời cha ông của Càn Long trước đấy. Càn Long là
một ông vua vừa khôn ngoan và tài trí, đã biết được và luôn theo dõi
cục diện phân tranh của Trịnh Nguyễn tại nước Nam. Mãi cho tới sự xuất
hiện của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, là một ngôi sao sáng của cả bầu
trời phương Nam vào thời bấy giờ, nên vua Càn Long cũng rơm rớm lo sợ,
khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ thống nhất xong nước Đại Việt, thì triều
đại Mãn Thanh nói riêng và nước Tầu nói chung, sẽ không yên so với
trước khi chưa có Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xuất hiện. Mãn Thanh vẫn cứ
nằm yên từ khi Trịnh Nguyễn đánh nhau, chờ lúc phải có ngày kiệt quệ
thì Mãn Thanh có muốn thôn tính miền Bắc thuộc về cũng không có gì là
khó, đó là chính sách bành trướng của bất cứ triều đại nào ở bên Tầu,
khi họ lên nắm quyền sinh sát nước Tầu đều là vậy cả. Trước hay sau
chỉ đi chung một sách lược là xâm chiếm lân bang để bành trướng thế lực.
Và từ khi vua Càn Long thấy Bắc Bình Vương xuất hiện hai nguyên gần và
xa của triều đại Mãn Thanh, đã thực hiện ngay một chiêu bài "phò Lê
diệt Nguyễn" khi Thái Hậu (mẹ của vua Lê Chiêu Thống) và một số thị
thần đến gỏ cửa nhà Thanh xin viện binh cứu giúp, thì âm mưu thực dân
của nhà Thanh bắt đâu phơi bày:
- Nguyên nhân gần là tiêu diệt Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ để lập nên một
triều đại bù nhìn do Lê Chiêu Thống tiếp tục làm vua nước Nam .
- Nguyên nhân xa là tránh được hậu họa, khi Bác Bình Vương Nguyễn Huệ
chấn chỉnh xong Miền Bắc và bình định xong Miền Nam, thì nước Đại Việt
đã hoàn toàn thống nhất một cách toàn diện, thì thật là một điều đáng
phải sợ, là nước Tầu có thể mất vào tay của Đại Đế Quang Trung Nguyễn
Huệ, một thiên tài quân sự và một khối óc phi thường, mà Càn Long đã
thừa viễn vọng để nhìn thấy.
Nói tóm lại, dú sao đi nữa thì vua Càn Long cũng không tự dối lòng, vì
chính Càn Long cũng thấy được nước Tầu đã qua hai lần bị ngoại tộc xâm
chiếm và đô hộ đó là Mông rồi đến Mãn Thanh, thì nước Đại Việt về thiên
tài quân sự ở mặt thần tốc của Quang Trung Nguyễn Huệ so ra còn tài
tình hơn cả là Thành Cát Tư Hãn khi chiếm được nước Tàu nữa là khác.
Trở lại, Ngàn Năm Thăng Long, mà chúng tôi xin mạo muội tổng hợp từ
nhiều nét đặc trưng qua từng trang sử oanh oanh liẹt liệt từ các sử gia
đến các học giả, đã lưu lại những nhận xét thật là xứng đáng đối với
Ngàn Năm Thăng Long của Hoàng Đế Lý Thái Tổ từ dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long cả là một sự lạ lùng và ý nghĩa đến muôn vàn. Một lần nữa,
Vĩnh Nhất Tâm trân trọng và mến gửi đến các bạn Thanh Niên, Sinh Viên,
và Học Sinh trong lẫn ngoài nước về Ngàn Năm Thăng Long của một đế đô
của ngàn năm văn vật.