Phật giáo Hòa Hảo là một hệ phái của Phật giáo chính thống, phát sanh do thời cuộc, mục đích hướng dẫn quần chúng Học Phật tu Nhân hành thiện, giải trừ mê tín dị đoan. Một tôn giáo nội sinh mang sắc thái thuần túy dân tộc, ảnh hưởng màu sắc Nam bộ, thích hợp với quần chúng bình dân.
Trên mãnh đất Việt Nam, ngoài Tam giáo đồng
lưu, năm thế kỷ qua, sự có mặt của Kyto giáo được tồn tại trong một
cơ chế chặt chẽ cũng xác định một vị thế khiêm tốn trong lòng dân tộc.
Trong khi đó, Phật giáo tồn tại hàng ngàn năm trên mãnh đất màu mỡ,
cũng phát triển qua nhiều hình thức tông môn chi phái, trong đó, Phật
giáo Hòa Hảo là một trong những tôn giáo nội sinh thuần túy dân tộc
tính, đâm chồi bén rễ sâu rộng trong khu vực miền Tây Nam bộ.
Giáo chủ:
Đức Huỳnh Phú Sổ, sinh 15/11/1920 ( 25/11/Kỷ Mùi)
tại làng Hòa Hảo. Thân phụ là Huỳnh Công Bộ. Tín đồ thường gọi là Đức
Thầy. bẩm sinh là một cậu bé ốm đau bệnh hoạn. Ngài được thân phụ cho
ăn học đến bậc sơ học Pháp Việt tại trường Huyện. Ngài tính trầm lặng,
thích chốn thanh vắng, có tài thi phú. Thông minh và bén nhạy. Ngài lên
núi Cấm tìm thầy chữa bệnh, do duyên lành, ngài thụ giáo với Đức Phật
thầy Tây An, tục danh là Đoàn Minh Huyên, nguyên là giáo chủ phái Bửu
Sơn Kỳ Hương.
Hoàn cảnh xã hội:
Đầu thế kỷ XX, đất nước đang bị hai thế lực Pháp-
Nhật xâm chiếm. Xã hội bất an, tôn giáo như Phật Khổng đứng trước nguy
cơ đen tối bởi áp lực của văn hóa phương Tây và tôn giáo La Mã bành
trướng. Giới trẻ nghiêng về Tây học, nho giáo co cụm, các đồ Nho và sư
sãi gắn bó nhau để tìm lối thoát thích ứng với trào lưu. Các chùa am
đa phần còn lại các sư cụ chỉ biết chữ Hán.Tín đồ vì cuộc sống mới và
kinh tế căng thẳng cũng ít đến chùa.Phật giáo biến thành tôn giáo phục
vụ cho ma chay, vì thế, các sư biến thành thầy tụng để không bị loại
trừ ra khỏi sinh hoạt cộng đồng. Muốn duy trì ngôi chùa tồn tại với
thôn làng, các sư không có người thừa kế, buộc phải lập gia thất, sống
tự lập trên những thửa ruộng có sẳn; dần dà, các sư biến thành hình
ảnh quen thuộc khi quá thân cận gần gủi với quần chúng trong đám cúng
làng xã, ma chay tộc họ. Càng ngày, Phật giáo càng chìm sâu vào mê tín,
Lúc bấy giờ tu sĩ Phật giáo chưa bắt kịp trình độ thế học, không đủ
cơ hội phổ biến sâu rộng trong lớp trẻ tân học, vì thế khó thích nghi
với sinh hoạt xã hội mới. Trước những áp lực lớn về chính trị, tín
ngưỡng, tôn giáo trong buổi giao thoa tân cựu, để linh hoạt hóa và xã
hội hóa đạo Phật, Đức Huỳnh Phú Sổ thừa mệnh thiên cơ đứng ra hành
đạo, lập đạo, hướng dẫn quần chúng trì niệm Lục Tự Di Đà theo pháp môn
Tịnh độ.Ngái áp dụng lối truyền bá rất bình dị bằng thơ văn dễ hiểu.
Nhân lúc trị bệnh cho quần chúng, ngài khuyến phát nhân dân tu tập,
chẳng bao lâu, Phật giáo Hòa Hảo phát triển sâu rộng tại miền Tây Nam
bộ.
Ngài chọn ngày 18/5/kỷ Mão làm ngày khai đạo, tức
vào năm 1939. Ngài là vị giáo chủ trẻ nhất khi chưa tới 20 tuổi, Từ
đó, làng Hòa Hảo tỉnh An Giang là nơi khởi xuất của đạo Phật Việt Nam,
gọi là Phật giáo Hòa Hảo hay còn gọi là Đạo Hòa Hảo.
Xu thế chính trị:
Giữa hai thế lực ngoại xâm, Ngài tạm thời chọn giải
pháp thân Nhật để chống Pháp, vì thế có lần bị Tây bắt nhốt; Ngài
liên kết được một số nhân vật chính trị thân Nhật ủng hộ lực lượng Hòa
Hảo. Sau khi Ngô Đình Diệm chấp chánh, lực lượng của Ba Cụt ( Lê Quang
Vinh), Năm lửa ( Trần văn Soái ) lần lượt bị tiêu diệt. Sau 1963, Phật
Giáo Hòa Hảo củng cố tổ chức, hệ thống hóa cơ sở từ Trung ương trở
xuống cấp huyện xã. Năm 1946,Đức Thầy cũng thành lập tổ chức chính trị
để đáp ứng nhu cầu thời cuộc như Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt
Nam quốc gia độc lập đảng, Thành lập đội quân mang tên Nghĩa quân Cách
Mạng Vệ Quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực…Do nội bộ bất đồng mà Phật Giáo
Hòa Hảo chia làm ba nhóm, một do Lương Trọng Tường, một do Huỳnh văn
Nhiệm, rồi Lê Quang Liêm tách ra từ nhóm Lương trọng Tường vào năm
1972. Tuy vậy, Phật Giáo Hòa Hảo cũng đã thành lập được một Đại học Hòa
Hảo và sáu trường trung học phổ thông cùng hai bệnh viện.
Hệ thống giáo lý:
Ngài soạn cuốn Thi Văn giáo lý Sấm giảng gồm 6 tập:
Sấm khuyên người đi tu niệm
- Kệ giảng người khùng
- sấm giảng
- Giác mê tâm kệ
- khuyến thiện
- những điều sơ học cần thiết của người tu hiền.
Nội dung là học Phật tu nhân. Phần giáo lý được giản
lược dễ hiểu để hướng dẫn tín đồ ăn ở hiền lành làm thiện. Chủ trương
thực hiện tứ ân của Tứ Ân Hiếu nghĩa do Đức Phật thầy Tây An khởi
xướng,- ân tổ tiên – ân đất nước – ân đồng bào nhân loại và ân Tam bảo.
Chủ trương vừa học Phật vừa tu nhân để lập công bồi đức thành bậc hiền
nhân. Đạo Hòa Hảo chủ trương hành thiện xã hội hơn là đi chùa lễ bái.
Ngày nay tín đồ bắt tay vào công tác từ thiện như bếp ăn tình thương,
làm cầu đóng giếng, cấp học bổng, cứu trợ bệnh nhân nghèo, xây nhà
tình thương…vì thế nghi lễ tôn giáo rất đơn giản và việc ma chay cưới
hỏi cũng đơn giản. Họ dồn lực lượng thực hiện việc công ích thực tiển
hơn.
Hòa Hảo là một tôn giáo không có tu sĩ, không
có giáo phẩm. Đồng đạo đề cử người đứng ra lo việc đạo tại các
cơ sở địa phương gọi là chức sắc. Cũng không có thờ thượng cốt. Tín đồ
tin Phật và thờ cúng tổ tiên hoặc các anh linh tiền hiền có công với
đất nước mà không nặng về thần thánh. Ngoài bàn thờ chính trong nhà còn
có bàn thờ Thông thiên, chỉ cúng hoa và nước trắng. Đọc Sấm giảng và
niệm Di Đà để tĩnh tâm.
Ngày lễ trong năm:
- Tết Nguyên Đáng
- Rằm Thượng Nươn
- Lễ Phật Đản
- Lễ khai đạo 18/5
- Rằm tháng bảy
- Vía Đức Phật thầy Tây An 12/8
- Rằm tháng 10
- Vía Di Đà rằm tháng 11
- Sinh nhật Đức Thầy 25/11
- Phật thành đạo 8/12