Chiến dịch phản công biên giới Tây - Nam là một loạt các chiến dịch quân
sự do Việt Nam tiến hành nhằm trả đũa các hoạt động quân sự của quân
Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá
làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978.
Sau Chiến
tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh
chấp và xung đột biên giới xẩy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978,
nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ.
Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc
mà không gặp phải bất kỳ sức kháng cự nào từ phía Việt Nam. Sáu ngày
sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ
Chu. Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành
lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ
Việt Nam và Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự
hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường
viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.
Tiếp theo
cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột
kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt
Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân
chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số
vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ
hai diễn ra vào ngay 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer
Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành
(tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết,
bị thương hoặc mất tích. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư
đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến
tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo
một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng
tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho
Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập
một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao
tranh tiếp diễn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng
Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định
thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày
diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có
thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu
người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều
13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục
tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km. Trong các
đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt
Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân
thường bị giết hại.
Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6
năm 1978, phía Việt Nam bị thương vong 30.642 bộ đội, trong đó số chết
là 6902 người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về phía sau, bỏ hoang 6 vạn
ha đất sản xuất.
Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang
bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư
đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm
thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn
đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên
Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược
diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến,
đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer. Các hướng tiến quân của
Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị
chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị
chiếm.
Lực lượng hai bên
Việt Nam
Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là tướng Lê Trọng Tấn, lực lượng được huy động bao gồm:
Quân đoàn 2 của thượng tướng Nguyễn Hữu An, chính ủy Lê Linh, gồm các
Sư đoàn 304, 325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên
(An Giang - Hà Tiên) đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9
đánh về Phnom Penh, chiếm Kampot và vùng duyên hải Đông Nam Campuchia.
Sư đoàn 306 mới thành lập không kịp tham gia chiến dịch vì chưa hoàn
thành công tác huấn luyện. Cũng như tại mặt trận Tây Ninh, tại An Giang,
quân Việt Nam cũng chia quân tấn công hai hướng. Hướng thứ nhất theo
Quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh về Phnom Penh. Hướng thứ hai tiến theo
duyên hải về hướng Tây đánh chiếm hải cảng Kompong Som, Sư đoàn 304
được dùng làm trừ bị, cố thể được dùng tăng cường trong trường hợp Quân
đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
Quân đoàn 3 của tướng
Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ sung Sư đoàn 302, đánh
từ Tây Ninh, vượt qua tỉnh Kampong Cham đến sông Mê Kông và vùng lãnh
thổ đông bắc Campuchia.
Quân đoàn 4 của thượng tướng Hoàng Cầm,
gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2, cùng Lữ đoàn 22
thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh và 3 tiểu đoàn
Khmer thân Việt Nam (UFNSK), hướng tấn công từ hướng tây và tây nam Tây
Ninh, sau khi đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, theo đường 1
qua tỉnh Svay Rieng nhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong để đến
Phnom Penh.
Quân khu 5: gồm hai Sư đoàn 307, 309 và Lữ đoàn đặc
công 198, đánh từ Pleiku theo đường 19 về hướng Tây để tiêu diệt quân
Khmer Đỏ ở Đông Bắc Campuchia.
Quân khu 7: gồm hai Sư đoàn 5,
302, 303, Trung đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm một số đơn vị
của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các
tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn
26 thiết giáp, 3 tiểu đoàn Khmer UFNSK từ phía bắc tỉnh Tây Ninh và khu
căn cứ của UFNSK quanh Snuol tiến quân dọc theo Quốc lộ 13 và Quốc lộ 7
đánh chiếm Kratié và Kampong Cham.
Quân khu 9: gồm các Sư đoàn 4, 330, 339, tấn công từ khu vực Tịnh Biên ở hướng Bắc, qua tỉnh Ta Keo, hướng về Phnom Penh
Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn
hải quân đánh bộ 101 đổ bộ vào vùng duyên hải Đông Nam Campuchia để
chiếm Ream và cảng Sihanoukville trên bán đảo Kampong Som.
Đoàn
901 không quân: gồm Sư đoàn không quân 372 được trang bị máy bay F-5,
A-37, máy bay trực thăng UH-1, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47, và
một phân đội MiG-21 từ Trung đoàn 921.
Các sư đoàn Việt Nam đều
có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo phòng không và một lữ
đoàn công binh. Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000 quân UFNSK tham
gia chiến dịch, tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là con
số phóng đại, chỉ có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến
dịch, còn lại đại bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần,
phiên dịch...
Campuchia
Theo phía Việt Nam,
lực lượng Khmer Đỏ gồm có 19 sư đoàn, theo tác giả Steven Heder, quân
Khmer Đỏ gồm chừng 15 sư đoàn. Các sư đoàn này được trang bị tốt bằng
vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy dày dạn kinh nghiệm
trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung thành
đến cuồng tín, nhưng các sư đoàn này cũng đã bị nhiều hao tổn trong
những lần giao tranh trước, và quân số mỗi sư đoàn chỉ chừng dưới 4.000
người, gần bằng nửa quân số của sư đoàn Việt Nam.
Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902
Một số máy bay chiến đấu T-28.
Một phân đội MiG-19 do Trung Quốc sản xuất, số Mig-19 này không kịp
tham chiến vì không có phi công và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ
chiếm Phnom Penh
Một sư đoàn thủy quân lục chiến
Một sư đoàn hải quân
Một sư đoàn không quân, nhưng chiến đấu như bộ binh khi giao tranh nổ ra.
Nhiều đơn vị xe tăng và trọng pháo.
Chiến dịch phản công
Diễn biến chiến dịch
Tới đầu tháng 12 năm 1977, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số
tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới
trong lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và
Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc
lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sau khi
được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản
công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung
đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung
đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của
Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới. Tuy
nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết đị
nh mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.
Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
Chiến dịch biên giới Tây Nam 12/1978 - 1/1979
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt
Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309
quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía
Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao
vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 1 tháng 1 năm 1979, lực lượng
Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 5 tiến từ hướng đông, cùng Sư
đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư
đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư
đoàn này gặp phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong
cuộc tiến quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập
kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33,
sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa. Các đơn vị quân
Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và suýt chiếm được sở
chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân
Khmer Đỏ phải rút lui, và tới ngày 29 tháng 12, thành phố Kratié rơi
vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã
chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại
đánh chiếm thị xã Chhlong do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4
tháng 1, họ chiếm được Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ
Campuchia ở phía đông sông Mekong coi như bị mất.
Sáng
ngày 31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân
đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer
Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham.
Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn
lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây
sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
Không
quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer
Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ xuất
kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1
năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ
huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh
cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer
Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của
bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn dừng lại, rồi
dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ
tỉnh Prey Veng.
Trong thời gian đó, ngày 28 tháng 12, ở hạ
lưu đồng bằng sông Mekong, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam
mở cuộc tấn công phòng ngừa dọc biên giới. Quân Khmer Đỏ tiêu diệt một
số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ
Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Cuộc tấn công này làm cho tình hình
Quân đoàn 2 của tướng Nguyễn Hữu An trở nên rất khó khăn. Quân Khmer Đỏ
đã chiếm được khu vực đầu cầu mà Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9
định dùng để tiến vào Campuchia, đồng thời giành được một chiến lũy tự
nhiên cản đường tiến của quân Việt Nam.
Sau khi nhận được
sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân
khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản công. Sau
24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ
khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không
quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao
vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất
Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu
diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong
dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về
Takéo.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh,
Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải
quân, thiết giáp... quân Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các
vị trí Năm Căn, Hoà Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư
đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng
thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Được 15 xe
tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm bắn yểm trợ,
Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer Đỏ ở Don So.
Tuy nhiên sau hai ngày giao chiến với nhiều tổn thất, Sư đoàn 7 vẫn
chưa chọc thủng được tuyến phòng phủ của Khmer Đỏ. Tới đêm ngày 1 tháng
1, tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào
trận.
Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh
thua ở Tây Ninh, quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải
chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và
kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan
rã. Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân
Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị
đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2 tháng 1 năm 1979,
quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các
trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư
đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ
vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak
Luong.
Đánh chiếm Phnom Penh
Ngày 6 tháng 1, các đơn
vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak Luong và bắc Kompong Cham.
Chín sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh
từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di chuyển theo
quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341
bảo vệ sườn phía bắc. Một toán đặc công nhảy dù xuống Phnom Penh để
giải cứu Hoàng thân Sihanouk, nhưng bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt
hết, chỉ duy nhất một người sống sót.
Tại Kompong Cham,
Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh quyết liệt với quân
Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc
bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối bắn trùm lên mặt sông
để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn một chút, quân Khmer Đỏ
bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm và 155mm để bắn vào
quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong. Đêm ngày 5 tháng 1,
một toán quân gồm lính trinh sát, công binh và bộ binh định vượt qua
bờ sông chiếm một đầu cầu nhỏ, nhưng quân Khmer Đỏ đánh bật họ lại.
Tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng
thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân
sang bờ tây. Mặc dù rất nhiều thuyền bị trúng đạn của quân Khmer Đỏ,
Quân đoàn 3 cuối cùng cũng đã thiết lập được một đầu cầu. Một đại đôi
xe lội nước vượt sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; hai tiểu đoàn bộ
binh cũng vượt được sông, đến 8:30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm
Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe
lội nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng
lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa giao chiến
với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông
Tongle Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh.
Trong khi đó, ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư
đoàn 7 Quân đoàn 4 được một tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía
đông của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã
không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng
hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7
được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến
phà. Ngày 7 tháng 1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông.
Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ
quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong
mà không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4 tháng 1, Quân đoàn 4
đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh. Tuy
nhiên Quân đoàn 3 đã đến muộn, không kịp chặn đường Chính phủ Polpot
rút chạy khỏi Phnom Penh.
Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam
chiếm sân bay Kampong Chhnang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K,
sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28. Ngày 8 tháng 1, Hội đồng
Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Somrin làm chủ tịch đã được thành
lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn
của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo
quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo
các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống cự
đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap.
Hướng nam, Sihanoukville
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên
giới vào ngày 3 tháng 1 năm 1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ
nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2.
Ngày 5 tháng 1 năm 1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh
Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng
Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy khét tiếng cuồng tín đã
chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa
biên giới và Chhuk. Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có
thể đánh tan tuyến phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk
Meas. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng
tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc
lộ ven biển.
Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung
kích 24, tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk.
Các quân xa của Việt Nam gồm xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di
chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ
phục kích phá hủy một số xe và pháo, sở chỉ huy của tướng An cũng bị
tổn thất và tạm thời mất liên lạc với các lực lượng còn ở phía sau. Tới
chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3, và
trong quá trình tiến công đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự
Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 tháng 1 năm 1979, từ đảo Phú
Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn
của Mỹ, hai tàu khu trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn
bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa
pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Sẩm tối ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ
và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc,
pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các thuyền
tuần tiễu loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream và các bến
cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao chiến trên
biển, do có ưu thế về số lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam đẩy lùi
hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt Nam
cũng bị trúng đạn, khiến nhiều thủy thủ bị thương vong. Số tàu phóng
lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của
không quân Việt Nam, đến ngày 16 tháng 1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn
đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày
7 tháng 1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi
Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville. Lữ đoàn
đổ bộ được toàn bộ 3 tiểu đoàn và số xe lội nước, xe bọc thép, nhưng do
thủy triều lên cao, không có đủ chỗ triển khai đội hình, nên không đổ
bộ được số xe tải, và đến tối, 3 tiểu đoàn nữa theo dự định cũng sẽ đổ
bộ lại phải rút ra ngoài.
Theo kế hoạch, lực lượng Hải quân
đánh bộ phải triển khai một lực lượng lớn, theo vùng ven biển đánh
chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng và giao điểm Veal Renh dẫn về bán
đảo Kampong Som. Tuy nhiên, một chỉ huy lực lượng lính thủy đánh bộ do
nóng vội, đã tập hợp tiểu đoàn của mình, chở trên 12 xe tăng và xe bọc
thép tiến về Sihanoukville trước khi trời sáng. Đơn vị này bị một lực
lượng lớn Khmer Đỏ vây đánh từ chiều, qua đêm đến suốt ngày hôm sau và
cuối cùng bị tiêu diệt gần như hoàn toàn. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải
quân mới đổ bộ thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của
Lữ đoàn 101 lên bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới
lên bờ được.
Sư đoàn 304 vốn được dùng làm dự bị để tham
gia đánh về Phnom Penh, nhưng do Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom
Penh từ ngày 7 tháng 1, nên tướng An dùng sư đoàn này để nhanh chóng
giải cứu lực lượng lính thủy đánh bộ và đánh chiếm Sihanoukville. Dẫn
đầu bởi một đơn vị xe M-113, Trung đoàn 66 của sư đoàn, kế tiếp là
Trung đoàn 9 hành quân suốt đêm ngày 9.
Ngày 9 tháng 1,
Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân đánh bộ, chuẩn bị giao
chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66 tổ chức chiếm
cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải quân đánh bộ
đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230 Campuchia, quân
Việt Nam chiếm được Kampot. Trung đoàn 9 không đến kịp vì một cây cầu
sụp đổ khi xe tăng dẫn đầu trung đoàn đi qua. Khi Trung đoàn 9 và Lữ
đoàn xe tăng 203 đến thành phố thì Kampot đã rơi vào tay quân Việt Nam,
nên lực lượng này được đưa đi đánh quân cảng Ream. Được sự trợ lực của
pháo hải quân bắn từ bến cảng lên, cánh quân này chiếm được quân cảng
Ream và hải cảng Kampong Som. Tuy nhiên, vì không chuẩn bị kịp về tiếp
liệu, quân Khmer Đỏ đã có thể phản công chiếm lại Kampong Som ngày 14
tháng 1, nhưng quân Việt Nam tái chiếm lại vào ngày hôm sau.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai
thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như
Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17
tháng 1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và
chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam
coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của
Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot
vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu, gây ra nhiều thương vong cho quân
đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia.
Truy quét tàn quân Khmer Đỏ
Đánh Siem Reap và Battambang
Trên chiến trường Campuchia, vì quân Việt Nam tiến quá nhanh chóng,
nên quân Khmer Đỏ chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị
đã tập trung lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy
phá.
Sau khi Quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị
của Quân đoàn 3, Quân khu 5 và Quân khu 7 cũng vượt sông Mekong tiến
chiếm và bình định lãnh thổ phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sap. Quân
Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự gần tỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể
làm chậm đà tiến quân của Việt Nam. Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị
nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Quân đoàn 2 và các sư đoàn của
Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng duyên hải cũng tiến dọc theo quốc lộ
4 về hướng Bắc. Mấy ngày sau khi Trung Quốc tiến đánh biên giới
Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội. Việt Nam bắt đầu tổng
động viên, một số các trung đoàn độc lập được tăng cường lên thành cấp
sư đoàn, như các trung đoàn Gia Định 1 và 2, Quyết Thắng 1 và 2, trở
thành các Sư đoàn 317, 318 để gửi sang tăng cường mặt trận Campuchia.
Trách nhiệm chính trong công tác hành quân vẫn là các đơn vị của Quân
đoàn 4.
Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 10 theo lệnh của tướng Kim
Tuấn thực hiện cuộc hành quân chớp nhoáng truy kích quân Khmer Đỏ. Tới
ngày 9, Trung đoàn 24 đã chiếm được Kampong Thom, Trung đoàn 26 cũng đã
kiểm soát được đường 6 nối Kampong Thom và Phnom Penh, Trung đoàn 66
được lệnh vượt lên trước hai đơn vị này đánh chiếm thành phố Siem Reap ở
phía tây bắc biển hồ Tongle Sap. Dùng 36 xe tải chở quân, được xe tăng
yểm trợ, trung đoàn nhanh chóng hành quân, tiến được 100km chỉ trong
vòng 2 giờ, đồng thời đánh tan các trạm kiểm soát của Khmer Đỏ dọc
đường. Trên đường đi, một đoàn xe chở quân Khmer Đỏ cũng nhập vào đội
hình trung đoàn do tưởng nhầm là tàn quân Khmer Đỏ tháo chạy. Do trời
tối, không ai phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Mãi đến khi hai bên nhận ra
nhau thì một trận đánh khốc liệt mới nổ ra, quân Việt Nam tiêu diệt và
chiếm toàn bộ đoàn xe gồm 23 xe tải chở quân Khmer Đỏ. Rạng sáng ngày
10, quân Việt Nam đến Siem Reap, quân Khmer Đỏ bị bất ngờ, phải tháo
chạy ra bốn phía. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10
và Sư đoàn 5 của Quân khu 7 cũng đã tới nơi.
Ngày hôm sau,
Trung đoàn 24 lại hành quân 100km nữa đánh chiếm thị xã Sisophon nằm
cách biên giới Thái Lan 50km. Ngày 12 tháng 1, (sau khi trao lại thị xã
cho lực lượng Quân khu 5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn
66 cùng một đại đội xe M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo
đường 5 phía nam Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập
trung về Battambang và chiếm thành phố ngay trong ngày hôm đó.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, tướng Kim Tuấn di chuyển Bộ chỉ huy Quân
đoàn 3 đến Battambang để trực tiếp chỉ huy chiến dịch truy quét tàn
quân Pol Pot tập trung ở vùng tây nam gần biên giới Thái Lan. Ba ngày
sau, ông rời Battambang để đi Siem Reap, trên đường đi khoảng 40km về
hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị một lực lượng lớn Khmer Đỏ
phục kích. Phần lớn đoàn xe bị phá hủy, tướng Kim Tuấn bị tử thương và
mất ngày hôm sau, ngày 17 tháng 3. Ông là sỹ quan cao cấp nhất của Quân
đội Nhân dân Việt Nam hy sinh khi tham chiến ở Campuchia. Ba tháng
sau, tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 của ông rời Campuchia để tham gia
phòng thủ biên giới phía bắc với Trung Quốc.
Khu vực Tây Nam
Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại
Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4 nối hải cảng Kampong Som với Phnom
Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 km. Thị xã này, sau khi quân Khmer Đỏ di
tản vội vã, do Trung đoàn 10 thuộc Sư đoàn 339 Việt Nam chiếm đóng.
Nhưng ít ngày sau, các lực lượng còn lại của các Sư đoàn 703, 340, 221
từ tuyến phòng thủ Svay Rieng chạy về đã tập trung lại và dự định tái
chiếm thị xã. Được tin, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều động Sư đoàn 341 đến
tăng cường. Trận đánh bắt đầu ngày 21 tháng 1 năm 1979 đến ngày 7
tháng 2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng, quân Việt Nam vẫn giữ được
Kampong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn Campuchia bị tan rã, chỉ còn
là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du kích, hoặc rút về biên giới
Thái Lan.
Giữ vững được Kampong Speu, bảo đảm được giao
thông trên quốc lộ 4, quân Việt Nam tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ
chỉ huy quân sự của Pol Pot từ Phnom Penh rút về trú đóng. Căn cứ này
nằm trong một vùng rừng núi hiểm trở, cách Phnom Penh khoảng 100 km về
phía tây nam. Lực lượng tấn công gồm Sư đoàn 2, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9,
Sư đoàn 341 của Quân đoàn 4, được tăng cường thêm Sư đoàn 5 của Quân
khu 7. Vì lực lượng tấn công quá hùng hậu, quân Khmer Đỏ rút lui, bỏ
lại căn cứ Amleng, nhưng họ tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho
quân Việt Nam khi họ rút lui khỏi căn cứ bằng đủ mọi cách như phục
kích, bắn tỉa, gài mìn, đốt rừng...
Chiếm xong được Amleng,
quân Việt Nam mở chiến dịch đánh chiếm thị xã Leach. Leach là một thị
xã nhỏ nằm gần quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh đi Battambang,
cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km. Trước ngày 7 tháng 1, Leach được
Khmer Đỏ sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Sau khi Phnom Penh thất thủ, khi
quân Việt Nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị trí, Khmer
Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Một phần lớn những
lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số gồm nhiều sư đoàn
(104, 210, 260, 264, 460, 502), nhưng trên thực tế, mỗi sư đoàn chỉ
còn chưa tới một ngàn quân. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo
105 ly và vài xe thiết giáp.
Để tấn công Leach, quân Việt
Nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn công làm bốn hướng. Hướng thứ
nhất, do Sư đoàn 341 thay thế Sư đoàn 330 đã bị hao hụt quân số quá
nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm thị xã Pursat để từ đó đánh
vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do Sư đoàn 9 từ căn cứ Amleng mới
chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do Quân khu 9 phụ trách
được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong, rồi từ đó, tấn công mặt nam. Hướng
thứ tư, do Sư đoàn 31, Quân đoàn 3, từ biên giới Thái Lan theo tỉnh lộ
56 đánh ngược về mặt tây của Leach.
Vì đây là một trận
quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng. Tất cả các sư đoàn
tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hoả lực thua kém, bệnh
tật, bị hao hụt lực lượng mà không được bổ sung nên căn cứ Leach của
Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29 tháng 4 năm 1979. Trận đánh
tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất
Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về
các mật khu ở Pailin và Taxang sát biên giới Thái Lan. Một số khác
phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Các
đơn vị của Việt Nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định. Nhiều sư
đoàn thiện chiến đã bị hao hụt nặng được rút về nước. Những sư đoàn
tân lập được gửi qua tăng cường hay thay thế. Phía Việt Nam cho biết,
tới cuối tháng 1 năm 1979, quân Việt Nam đã có tới 8.000 thương vong. Về
phía quân Khmer Đỏ dù bị thiệt hại nặng vẫn còn khoảng 30.000 quân có
còn khả năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam phải
duy trì một lực lượng quân sự lớn tại Campuchia.
Thành lập chính quyền mới
Ngày 5 tháng 1 năm 1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở
Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này
lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng có từ thời 1951. Pen Sovan, một
cán bộ Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, đang mang quân hàm thiếu
tá trong quân đội Việt Nam, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ
viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin
và Chia Soth.
Ngày 8 tháng 1 năm 1979, đài phát thanh
Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng
cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập
do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một
hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Việt Nam
trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của
Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra
117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng
Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ
Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện
của 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4 do
tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
Chính quyền mới của Campuchia chỉ
được một số nước cộng sản công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục
được các nước phương Tây, Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là
thành viên Liên hiệp quốc.
Căng thẳng biên giới với Thái Lan
Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng
để Trung Quốc có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi
họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Gừng Giao, Uỷ viên Bộ
Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội
đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao.
Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan
không còn giữ thái độ trung lập nữa, Kriangsak đồng ý để Trung Quốc
dùng lãnh thổ Thái lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.
Sau những năm
1980, trong các cuộc truy kích tàn quân Khmer Đỏ sát biên giới với
Thái Lan, quân Việt Nam đã có lúc vượt qua biên giới và đụng độ với một
số đơn vị quân đội Thái Lan. Đặc biệt nghiêm trọng là năm 1985, quân
Việt Nam đã xâm phạm biên giới Thái Lan, mà theo họ là để truy quét 1
tiểu đoàn Khmer Đỏ. Người Thái cho rằng: Việt Nam từ lâu đã muốn dạy
cho Thái Lan một bài học vì họ công khai mở cửa biên giới giúp đỡ Khmer
Đỏ, tạo điều kiện cho du kích Khmer Đỏ quấy phá quân Việt Nam - sau
khi tiến vào biên giới Thái Lan có nơi lên đến 20km, quân Việt Nam đã
chạm trán với Sư đoàn 16 Bộ binh hoàng gia Thái Lan và đánh thiệt hại
nặng đơn vị này. Thái Lan phản ứng lại hành động này rất yếu ớt, chủ
yếu là không quân, còn lại là bằng các nỗ lực ngoại giao với Mỹ và Trung
Quốc. Tháng 2-1985, trước sự phản đối mạnh mẽ của dư luận quốc tế,
quân Việt Nam đã rút khỏi Thái Lan sau 2 tuần hiện diện ở đây. Có ít
nhất 7 máy bay Thái và một chiếc An-26 của Việt Nam bị bắn hạ. Kể từ đó
quan hệ Việt-Thái luôn ở trong thế đối đầu chỉ đến khi Việt Nam chính
thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mới chuyển từ đối đầu
sang đối thoại với Thái Lan.