Cựu đại sứ Việt Nam Lê Văn Bàng thú nhận
HÀ NỘI (NV) - Nhất
định buộc Mỹ phải bồi thường chiến tranh rồi mới chịu thiết lập bang
giao. Mỹ không chịu. Tới khi muốn quá, nài nỉ xin được bang giao vô điều
kiện thì bị lờ đi vì nước Mỹ có những tính toán khác.
|
Cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Ðốn Lê Văn Bàng. (Hình: Tuần Việt Nam)
|
Ðây
là những điều được ông Lê Văn Bàng, cựu đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh
Ðốn sau lên làm thứ trưởng Ngoại Giao, nghỉ hưu năm 2010, kể lại qua
cuộc phỏng vấn của ký giả Huỳnh Phan trên báo điện tử Tuần Việt Nam.
Lỡ
quá nhiều dịp vì các tính toán sai lầm của đám lãnh tụ Hà Nội cộng với
hoàn cảnh của một nước nhỏ trên bàn cờ quốc tế, bởi vậy, đàm phát từ
sau khi chiến tranh chấm dứt, mãi 20 năm sau Việt Nam mới thiết lập
được bang giao với Mỹ.
Cuộc phỏng vấn ông Bàng được Tuần Việt Nam
phổ biến trong hai ngày 6 và 7 tháng 12, 2011. Ông là một nhà ngoại
giao có cơ hội tham dự từ đầu các cuộc đàm phán cho tới khi trở thành
đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Hoa Thịnh Ðốn.
Bắt đầu đàm phán
bang giao từ năm 1977 dưới thời Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter, Lê Duẩn là
tổng bí thư đảng CSVN, ông Lê Văn Bàng nhìn nhận việc Việt Nam nhất
định đòi Mỹ $3.25 tỉ USD viện trợ không hoàn lại trong 5 năm và khoảng
$1 tỉ USD đến $1.5 tỉ USD viện trợ lương thực và hàng hóa “không ngờ đó
lại là chỗ nghẽn trong đàm phán bình thường hóa giữa Việt Nam và Mỹ.”
Phía
Hà Nội “kiên quyết đòi” khi viện dẫn điều 21 của bản Hiệp Ðịnh Paris
và cả công hàm Tổng Thống Nixon gửi cho Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng năm
1973 đề cập đến viện trợ. Nhưng không ngờ lại bị ông Nixon “gài” ngược
bằng lời rào đón trong công hàm là viện trợ “theo những quy định của
hiến pháp” của mình.
Tổng Thống J. Carter thuộc đảng Dân Chủ nắm
quyền lãnh đạo nước Mỹ, muốn thiết lập bang giao với Việt Nam nhưng
“ông ta vấp phải một thách thức rất lớn từ phái Cộng Hòa trong Quốc
Hội,” ông Bàng nói.
“Từ đầu tháng 5, 1977, khi Mỹ và Việt Nam bắt
đầu đàm phán bình thường hóa ở Paris, Hạ Viện Mỹ đã bỏ phiếu cấm bất
kỳ viện trợ nào cho Việt Nam,” ông nói.
Sau đó, tình hình khu vực biến chuyển nhanh chóng và dồn dập.
“...nhất
là sự căng thẳng với Trung Quốc, với việc cắt viện trợ và rút chuyên
gia về nước, và Campuchia, khi chính quyền Khmer Ðỏ đã có các cuộc xâm
phạm biên giới phía Tây Nam, lên tiếng đòi xem lại vấn đề phân định
lãnh thổ giữa hai nước, cũng như cắt đứt quan hệ ngoại giao”, ông nói.
Cũng thời gian này, Việt Nam quyết định bám vào Nga hoàn toàn “chuẩn bị
ký hiệp ước liên minh với Nga, cho phép hải quân của họ sử dụng Cam
Ranh. Ðổi lại Liên Xô tăng viện trợ cho Việt Nam.” Ông nói Việt Nam
chuyển hướng chiến lược nên nhu cầu đòi tái thiết từ viện trợ Mỹ “không
còn quan trọng như trước nữa.”
Trước sức ép quá nóng từ phương
Bắc, Hà Nội cử một phái đoàn đi Hoa Thịnh Ðốn vì “nếu không có luồng
gió ôn hòa từ phía Tây thì căng lắm.”
Ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc
này là thứ trưởng Ngoại Giao, được cử đi “sang đàm phán kín với Trợ lý
Ngoại trưởng Mỹ Holbrooke, chấp nhận bình thường hóa vô điều kiện.”
Tuy
nhiên, đạt được thỏa thuận với ông Holbrooke rồi, “ông Thạch chờ suốt
mà không có câu trả lời từ Bộ Ngoại Giao Mỹ.” Ông Bàng kể lại rằng: “Sự
nhượng bộ của Việt Nam đã quá muộn, bởi, trong thời gian đó, đã có
những biến chuyển mạnh mẽ của tình hình thế giới, và Mỹ không thể ứng xử
như cũ. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc lúc đó là ưu tiên hàng
đầu của Mỹ.”
Ông Bàng xác nhận phía Việt Nam quá thèm bang giao
với Mỹ đến độ cử vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ thời đó là Trần Quang Cơ sang New
York từ tháng 9, 1978 và “cố chờ” câu trả lời nên ở đó đợi đến tháng 1,
1979 (gần tới lúc Việt Nam bị Trung Quốc đánh dọc 6 tỉnh biên giới),
hy vọng Mỹ thỏa thuận xong với Trung Quốc thì sẽ tính tới chuyện bang
giao với Việt Nam nhưng vẫn không thấy gì.
Ông Bàng cho biết
phía Việt Nam đã chuẩn bị người để mở đại sứ quán “đâu vào đấy” để mở
sứ quán ngay sau khi ký kết bình thường hóa.
Theo ông Bàng, Mỹ
tập trung vào “con bài” Trung Quốc, “dựa trên cơ sở sự bất đồng sâu sắc
giữa Liên Xô và Trung Quốc, nhằm thay đổi cán cân quyền lực trên thế
giới giữa Mỹ và Liên Xô.” Bởi vậy, “đến thời điểm lãnh đạo Việt Nam
thực sự mong muốn bình thường hóa ngay với Mỹ, phía Mỹ lại chưa muốn.
Bởi, như vậy, họ khó thúc đẩy bình thường hóa và cải thiện quan hệ với
Trung Quốc được.”
Ông Bàng cho rằng, trong nỗ lực thiết lập quan
hệ với Hoa Kỳ, “Việt Nam đã đi gần đến nơi, nhưng câu chuyện chiến lược
đã cản trở. Việt Nam đã tình cờ rơi vào ván bài chiến lược của các
nước lớn, và lại là một con bài chẳng mấy quan trọng, có thể bị ‘dập’
bất cứ lúc nào.”
Rồi đến cuối năm 1978 Việt Nam tấn công chiếm
đóng Campuchia, thì “mọi mối tiếp xúc (đàm phán bang giao) hầu như bị
cắt đứt,” ông nói.
Nước Mỹ tức giận nên “ngay cả vấn đề MIA/POW,
một trong những lời hứa của ông Jimmy Carter với hiệp hội những gia
đình có người Mỹ mất tích trong chiến tranh khi tranh cử, Mỹ cũng chẳng
quan tâm nữa.”
Mãi tới khi kiệt quệ kinh tế, năm 1985 lạm phát
lên tới 430% (theo tài liệu Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), chế độ Hà Nội thấy
không còn con đường nào khác ngoài việc “đổi mới” kinh tế để tự cứu
mình khỏi thế bị bao vây, cô lập,” Mỹ mới có ý đối thoại trở lại.
Năm 1986, lạm phát Việt Nam là 453.5%, cuối năm, hai Nghị Sĩ Gary Hart và Richard Lugar đến Hà Nội, gặp ông Nguyễn Cơ Thạch.
“Hai
điều kiện họ đưa ra để nối lại đàm phán bình thường hóa là giải quyết
vấn đề POW/MIA và Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia.” Ông Bàng kể.
Việt Nam vội vàng đồng ý nhưng “cho dù Việt Nam đã hoàn tất việc rút
quân vào tháng 9, 1989, đến tận năm 1991, phía Mỹ vẫn chưa tin. Họ bảo
rằng biết đâu Việt Nam rút ở đầu này, nhưng lại vào Campuchia ở đầu
khác.”
Nhiều nghị sĩ Mỹ cũng không tin phía Việt Nam thành thật
trong việc hợp tác tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA).
Thậm chí phải đưa một phái đoàn Mỹ tới một nhà tù ở Thanh Hóa bị nghi
là còn giữ tù binh Mỹ để kiểm soát.
Tới thời TT Clinton, khi Mỹ
đồng ý bỏ cấm vận Việt Nam năm 1993, lại “rộ lên chuyện tài liệu Nga.”
Thời gian này, vì có tin tung ra từ Nga là tù binh Mỹ được CSVN gửi
sang Nga, lại còn được đại tá tình báo Nga Kalugin xác nhận. Hà Nội
phải giải thích, chứng minh vất vả mãi đến năm 1994, Mỹ bỏ cấm vận hoàn
toàn thì năm sau mới thiết lập được bang giao.
Bây giờ, sau
những bước đi chậm chạm, Việt Nam đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đối
tác chiến lược với Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa gỡ bỏ cấm vận bán võ khí
sát thương cho Việt Nam.
Khi gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình
Minh bên lề cuộc họp Liên Hiệp Quốc ngày 26 tháng 9, 2011, bà ngoại
trưởng Mỹ vẫn đòi hỏi Hà Nội phải cải thiện nhân quyền để hai nước có
thể tiến xa hơn nữa trong mối bang giao nhiều mặt. (TN) |