THÔNG BÁO !
Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người
TM Ban Điều Hành Blog
TM Ban Điều Hành Blog
01 November 2013
VIDEO - Bài giảng lễ các Thánh trước mộ cụ G.B Ngô Đình Diệm 01/11/2013
www.ducme.tv Bài giảng lễ các Thánh trước mộ cụ G.B Ngô Đình Diệm 01.11.2013
Ghi Chú
NgoDinhDiem,
VNCH,
XaHoi - SuKien
Văn hóa chiến tranh và nô lệ tư tưởng
Văn hóa chiến tranh và nô lệ tư tưởng
Huỳnh Trọng Hiếu - Thứ sáu, 01/11/2013
Cuộc chiến Nam Bắc kết thúc gần bốn thập niên, Nhà nước từng một thời có cơ quan đại diện chính thức tại Liên Hiệp quốc nay chỉ còn là hồi ức buồn trong tâm thức những người dân Việt lưu vong khắp nơi trên thế giới. Tiếp theo đó là những tranh luận dường như không có hồi kết, dưới nhiều lăng kính dị biệt về nguyên nhân chiến thắng- thất bại. Thiết nghĩ, một cái nhìn khách quan trên tinh thần tôn trọng sự thật là điều cần thiết.
Quả thật là một việc bất khả thi khi có tham vọng viết một bài viết ngắn mà có thể trình bày hết được những nguyên nhân chính trị sâu xa hay các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong một giai đoạn lịch sử đã dẫn đến sự cáo chung của một chính thể. Nên tôi chỉ tạm bàn đến một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Việt Nam Cộng hòa hay các trào lưu dân chủ nói chung trên toàn thế giới và sự thắng thế của cộng sản miền Bắc hay các chế độ độc tài ở nhiều nơi trên thế giới dưới góc độ văn hóa - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đất nước có chiến tranh.
Khác biệt căn bản
Sự khác biệt căn bản và dễ nhận biết nhất giữa các chế độ độc tài với chính thể dân chủ nằm ở tư duy và nhận thức của người dân. Trong một xã hội tự do (dù là tự do một phần) người dân có quyền có tự do tư tưởng, có tư duy độc lập, mà không bị dẫn dắt bởi một lý thuyết chủ đạo nào; hay nói khác hơn, ở đó người dân được nghĩ theo cách của mình và hiển nhiên được theo đuổi các ý tưởng khác biệt mà không bị áp đặt bởi một thế lực hay chủ thuyết chính trị nhất định nào. Một cách cụ thể, do người dân được nghĩ và được nói khác với chính quyền đương trị nên các hoạt động văn hóa xã hội ở các chính thể dân chủ vô cùng cởi mở và phong phú.
Một xã hội tự do phóng khoáng tự thân nó mang nhiều ưu điểm và cũng không thể tránh được nhiều "nhược điểm". Xã hội càng tự do thì văn hóa càng có nhiều cơ hội để phát triển toàn diện, không bị giới hạn bởi sự duy ý chí của nhà cầm quyền nên không bị áp đặt hay cứng nhắc. Do Văn hóa tự do trong một xã hội cởi mở, chúng ta thường rất khó tìm thấy sự đồng thuận cao độ về ý tưởng hay về bất kỳ phương diện nào. Vì khó tìm thấy sự đồng nhất nên thường diễn ra tranh luận triền miên giữa các trào lưu tư tưởng, điều này làm hạn chế tính hiệu năng khi bắt buộc phải theo đuổi một chính sách nhất quán. Nhất là trong thời kỳ chiến tranh, văn hóa tự do trở thành một trở lực to lớn cho việc thực thi chính sách cần những nỗ lực tập thể bắt buộc của quốc gia.
Ngược lại, trong một chính thể độc tài dù là độc tài cộng sản, quân phiệt hay hồi giáo, các giá trị về văn hóa bị bóp méo theo ý thức hay thủ đoạn của nhà lãnh đạo. Tại các quốc gia độc tài, sẽ là vô cùng hiếm hoi nếu không muốn nói là bị triệt tiêu hoàn toàn các ý niệm khác biệt về ý thức hệ. Văn hóa trong xã hội độc tài không còn là văn hóa thuần túy, nó được biến dạng thành một thứ công cụ để phục vụ cho lợi ích chính trị hay quân sự. Dưới nền văn hóa bị chỉ đạo, người dân, và tệ hơn là trí thức trong xã hội không có điều kiện để tư duy độc lập, đó chính là nguyên ủy của một nền văn hóa khiếm khuyết và sự nô lệ về tư tưởng. Có thể nói, một xã hội đề cao nhất nguyên bên trong các chế độ độc tài không phải là mảnh đất tốt cho một nền văn hóa nhân văn đích thực.
Văn hoá chiến tranh
Vì không có sự tranh chấp giữa các trào lưu tư tưởng nên rất dễ tìm thấy sự đồng thuận được áp đặt trong các xã hội nhất nguyên. Tuy sự áp đặt tư tưởng này tạo ra một thứ văn hóa di dạng nhưng nó là một động lực mạnh mẽ cho guồng máy quân sự hoạt động hiệu quả trong giai đoạn đất nước tham chiến. Tóm lại, chúng ta lĩnh hội một chân lý từ lịch sử rằng: tính độc đoán của nhà nước là yếu tố gây nên sự tàn phá văn hóa nhưng lại là mãnh lực tiềm tàng thúc đẩy sự hữu hiệu trong các tranh chấp quân sự bởi tính quyết đoán và sự nhanh chóng của nó trong việc ra quyết định.
Trải qua quá trình tồn tại và cạnh tranh khốc liệt trong không gian toàn cầu, chính thể dân chủ và chế độ độc tài biểu lộ rõ nhiều mâu thuẫn cốt lõi. Qua cách phản ứng của nhiều dân tộc trên thế giới đối với các thiết chế Dân chủ, ta ngầm hiểu rằng: đây không phải là một mô hình mà dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận dễ dàng mặc dầu tính chính đáng và phổ quát của nó đối với bản tính nhân loại là một điều không thể phủ nhận. Sau một thời gian tương tác với nhiều nền văn hóa, mô hình được nhiều người cho là sản phẩm của văn minh phương Tây đã thực sự du nhập và tự khẳng định mình tại nhiều quốc gia có trình độ dân trí cao.
Chủ nghĩa độc tài luôn tìm cách biện minh cho tính chính danh của mình bởi các "giá trị truyền thống". Các giá trị này được lôi ra để biện minh cho quyết tâm bảo toàn hiện trạng tồi tệ. Mặc dù luận điệu này được xem là ấu trĩ đối với những quốc gia dân chủ có nền văn hóa cởi mở, nhưng đối với những dân tộc "bán khai" thì nó vô cùng ăn khách. Khi các nhà nước dân chủ cổ xúy cho quyền tự do cá nhân hay chủ nghĩa công lợi thì các nhà nước độc tài lại cổ vũ nhiệt tình cho chủ nghĩa thần tượng cá nhân hay tâm lý sùng bái lãnh tụ. Các nhà độc tài nhận thức sâu sắc rằng việc sùng bái một cá nhân – một thực thể hiện hữu dễ dàng hơn rất nhiều so với việc cổ vũ cho các giá trị trừu tượng như tự do dân chủ. Và họ đã thành công rực rỡ trong những xã hội kém mở mang và những dân tộc chưa trưởng thành.
Hai kết quả
Bởi vậy, các chế độ độc tài thường tỏ ra hữu hiệu khi xảy ra các tranh chấp quân sự. Lấy một thí dụ lịch sử đau đớn từ cuộc nội chiến của Việt Nam, chúng ta có nhiều yếu tố để minh xác và khẳng định điều mà tôi muốn nói. Bằng một nhãn quan trung dung, tôi tin chắc rằng những người có một trình độ tri thức nhất định sẽ nhận thấy được sự cởi mở trong văn hóa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Một điều cần nhấn mạnh ở đây là sự du nhập quá sớm các giá trị tự do đã bào mòn sức mạnh của chính phủ miền Nam Việt Nam. Vì được thụ hưởng nền văn hóa mang đặc tính phát huy khả năng tư duy độc lập, những người lính miền Nam tham gia chiến tranh với tư duy và tình cảm hiện thực của một con người. Họ biết yêu, biết ghét, biết chán nản, biết sợ hãi, thậm chí biết phản kháng. Những ưu điểm về văn hóa đã trở thành chướng ngại cho việc kiện toàn bộ máy chiến tranh và phát huy hiệu năng quân sự.
Ngược lại, miền Bắc Việt Nam với một nền văn hóa được chỉ đạo để phục vụ cho chiến tranh, những người lính Bắc Việt bị biến thành những cỗ máy chiến đấu được lập trình sẵn. Họ lao vào cuộc chiến bằng một trái tim nóng nhưng thiếu vắng sự hiện hữu của một cái đầu lạnh. Với đầu óc bị đầu độc, họ không còn hành xử và suy tư như những người bình thường, mà là những người bị ám thị, chỉ biết giết chóc để phục vụ cho quyền lực tối cao của lãnh tụ mang danh nghĩa "cứu nước". Những người lãnh đạo độc tài Cộng sản miền Bắc đã khai dụng một nền văn hóa vốn đề cao tư duy rập khuôn, cổ vũ sự phục tùng vô điều kiện và tạo điều kiện cho sự nô dịch tư tưởng và họ đã thành công.
Văn hóa ở các quốc gia độc tài nói chung và Việt Nam nói riêng biến con người thành công cụ cho những mưu đồ chính trị chứ không cho phép con người được tư duy độc lập và sáng tạo. Ở đó, con người sẵn sàng tin vào huyền thoại hơn là dám dũng cảm đối mặt với thực tế, thích dựa dẫm vào vĩ nhân hơn là tin tưởng vào năng lực cá nhân...Sau này, nhà cầm quyền Việt Nam càng thành công hơn khi thông qua giáo dục và tuyên truyền nhằm xuất xưởng hàng triệu bộ não thanh niên bị ám thị, với sự áp đặt tinh vi và có hệ thống của chủ thuyết cộng sản.
Thật đáng ngại vì văn hóa Việt Nam ngày hôm nay vẫn chưa hội đủ những yếu tố cần thiết cho một sự nhận thức mới - nhận thức về tự do và công lý, đặc biệt là quyền tự do thoát khỏi sự nô lệ hoá về tư tưởng. Đa số người Việt đã và đang nghĩ theo cách nhà cầm quyền muốn họ nghĩ, làm theo cách nhà cầm quyền muốn họ làm. Chừng nào một nền văn hoá chưa cổ vũ và tạo điều kiện cho tư duy độc lập, công cuộc xây dựng nền dân chủ còn gặp nhiều chướng ngại. Muốn sự thay đổi thể chế chính trị diễn ra một cách tích cực, người Việt Nam cần phải thay đổi não trạng theo hướng tích cực tương ứng.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Huỳnh Trọng Hiếu
Huỳnh Trọng Hiếu là blogger tự do trẻ trong nước đấu tranh cho tự do, dân chủ cho Việt Nam.
Huỳnh Trọng Hiếu - Thứ sáu, 01/11/2013
Cuộc chiến Nam Bắc kết thúc gần bốn thập niên, Nhà nước từng một thời có cơ quan đại diện chính thức tại Liên Hiệp quốc nay chỉ còn là hồi ức buồn trong tâm thức những người dân Việt lưu vong khắp nơi trên thế giới. Tiếp theo đó là những tranh luận dường như không có hồi kết, dưới nhiều lăng kính dị biệt về nguyên nhân chiến thắng- thất bại. Thiết nghĩ, một cái nhìn khách quan trên tinh thần tôn trọng sự thật là điều cần thiết.
Quả thật là một việc bất khả thi khi có tham vọng viết một bài viết ngắn mà có thể trình bày hết được những nguyên nhân chính trị sâu xa hay các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong một giai đoạn lịch sử đã dẫn đến sự cáo chung của một chính thể. Nên tôi chỉ tạm bàn đến một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Việt Nam Cộng hòa hay các trào lưu dân chủ nói chung trên toàn thế giới và sự thắng thế của cộng sản miền Bắc hay các chế độ độc tài ở nhiều nơi trên thế giới dưới góc độ văn hóa - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đất nước có chiến tranh.
Khác biệt căn bản
Sự khác biệt căn bản và dễ nhận biết nhất giữa các chế độ độc tài với chính thể dân chủ nằm ở tư duy và nhận thức của người dân. Trong một xã hội tự do (dù là tự do một phần) người dân có quyền có tự do tư tưởng, có tư duy độc lập, mà không bị dẫn dắt bởi một lý thuyết chủ đạo nào; hay nói khác hơn, ở đó người dân được nghĩ theo cách của mình và hiển nhiên được theo đuổi các ý tưởng khác biệt mà không bị áp đặt bởi một thế lực hay chủ thuyết chính trị nhất định nào. Một cách cụ thể, do người dân được nghĩ và được nói khác với chính quyền đương trị nên các hoạt động văn hóa xã hội ở các chính thể dân chủ vô cùng cởi mở và phong phú.
Một xã hội tự do phóng khoáng tự thân nó mang nhiều ưu điểm và cũng không thể tránh được nhiều "nhược điểm". Xã hội càng tự do thì văn hóa càng có nhiều cơ hội để phát triển toàn diện, không bị giới hạn bởi sự duy ý chí của nhà cầm quyền nên không bị áp đặt hay cứng nhắc. Do Văn hóa tự do trong một xã hội cởi mở, chúng ta thường rất khó tìm thấy sự đồng thuận cao độ về ý tưởng hay về bất kỳ phương diện nào. Vì khó tìm thấy sự đồng nhất nên thường diễn ra tranh luận triền miên giữa các trào lưu tư tưởng, điều này làm hạn chế tính hiệu năng khi bắt buộc phải theo đuổi một chính sách nhất quán. Nhất là trong thời kỳ chiến tranh, văn hóa tự do trở thành một trở lực to lớn cho việc thực thi chính sách cần những nỗ lực tập thể bắt buộc của quốc gia.
Ngược lại, trong một chính thể độc tài dù là độc tài cộng sản, quân phiệt hay hồi giáo, các giá trị về văn hóa bị bóp méo theo ý thức hay thủ đoạn của nhà lãnh đạo. Tại các quốc gia độc tài, sẽ là vô cùng hiếm hoi nếu không muốn nói là bị triệt tiêu hoàn toàn các ý niệm khác biệt về ý thức hệ. Văn hóa trong xã hội độc tài không còn là văn hóa thuần túy, nó được biến dạng thành một thứ công cụ để phục vụ cho lợi ích chính trị hay quân sự. Dưới nền văn hóa bị chỉ đạo, người dân, và tệ hơn là trí thức trong xã hội không có điều kiện để tư duy độc lập, đó chính là nguyên ủy của một nền văn hóa khiếm khuyết và sự nô lệ về tư tưởng. Có thể nói, một xã hội đề cao nhất nguyên bên trong các chế độ độc tài không phải là mảnh đất tốt cho một nền văn hóa nhân văn đích thực.
Văn hoá chiến tranh
Vì không có sự tranh chấp giữa các trào lưu tư tưởng nên rất dễ tìm thấy sự đồng thuận được áp đặt trong các xã hội nhất nguyên. Tuy sự áp đặt tư tưởng này tạo ra một thứ văn hóa di dạng nhưng nó là một động lực mạnh mẽ cho guồng máy quân sự hoạt động hiệu quả trong giai đoạn đất nước tham chiến. Tóm lại, chúng ta lĩnh hội một chân lý từ lịch sử rằng: tính độc đoán của nhà nước là yếu tố gây nên sự tàn phá văn hóa nhưng lại là mãnh lực tiềm tàng thúc đẩy sự hữu hiệu trong các tranh chấp quân sự bởi tính quyết đoán và sự nhanh chóng của nó trong việc ra quyết định.
Trải qua quá trình tồn tại và cạnh tranh khốc liệt trong không gian toàn cầu, chính thể dân chủ và chế độ độc tài biểu lộ rõ nhiều mâu thuẫn cốt lõi. Qua cách phản ứng của nhiều dân tộc trên thế giới đối với các thiết chế Dân chủ, ta ngầm hiểu rằng: đây không phải là một mô hình mà dân tộc nào cũng có thể tiếp nhận dễ dàng mặc dầu tính chính đáng và phổ quát của nó đối với bản tính nhân loại là một điều không thể phủ nhận. Sau một thời gian tương tác với nhiều nền văn hóa, mô hình được nhiều người cho là sản phẩm của văn minh phương Tây đã thực sự du nhập và tự khẳng định mình tại nhiều quốc gia có trình độ dân trí cao.
Chủ nghĩa độc tài luôn tìm cách biện minh cho tính chính danh của mình bởi các "giá trị truyền thống". Các giá trị này được lôi ra để biện minh cho quyết tâm bảo toàn hiện trạng tồi tệ. Mặc dù luận điệu này được xem là ấu trĩ đối với những quốc gia dân chủ có nền văn hóa cởi mở, nhưng đối với những dân tộc "bán khai" thì nó vô cùng ăn khách. Khi các nhà nước dân chủ cổ xúy cho quyền tự do cá nhân hay chủ nghĩa công lợi thì các nhà nước độc tài lại cổ vũ nhiệt tình cho chủ nghĩa thần tượng cá nhân hay tâm lý sùng bái lãnh tụ. Các nhà độc tài nhận thức sâu sắc rằng việc sùng bái một cá nhân – một thực thể hiện hữu dễ dàng hơn rất nhiều so với việc cổ vũ cho các giá trị trừu tượng như tự do dân chủ. Và họ đã thành công rực rỡ trong những xã hội kém mở mang và những dân tộc chưa trưởng thành.
Hai kết quả
Bởi vậy, các chế độ độc tài thường tỏ ra hữu hiệu khi xảy ra các tranh chấp quân sự. Lấy một thí dụ lịch sử đau đớn từ cuộc nội chiến của Việt Nam, chúng ta có nhiều yếu tố để minh xác và khẳng định điều mà tôi muốn nói. Bằng một nhãn quan trung dung, tôi tin chắc rằng những người có một trình độ tri thức nhất định sẽ nhận thấy được sự cởi mở trong văn hóa ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Một điều cần nhấn mạnh ở đây là sự du nhập quá sớm các giá trị tự do đã bào mòn sức mạnh của chính phủ miền Nam Việt Nam. Vì được thụ hưởng nền văn hóa mang đặc tính phát huy khả năng tư duy độc lập, những người lính miền Nam tham gia chiến tranh với tư duy và tình cảm hiện thực của một con người. Họ biết yêu, biết ghét, biết chán nản, biết sợ hãi, thậm chí biết phản kháng. Những ưu điểm về văn hóa đã trở thành chướng ngại cho việc kiện toàn bộ máy chiến tranh và phát huy hiệu năng quân sự.
Ngược lại, miền Bắc Việt Nam với một nền văn hóa được chỉ đạo để phục vụ cho chiến tranh, những người lính Bắc Việt bị biến thành những cỗ máy chiến đấu được lập trình sẵn. Họ lao vào cuộc chiến bằng một trái tim nóng nhưng thiếu vắng sự hiện hữu của một cái đầu lạnh. Với đầu óc bị đầu độc, họ không còn hành xử và suy tư như những người bình thường, mà là những người bị ám thị, chỉ biết giết chóc để phục vụ cho quyền lực tối cao của lãnh tụ mang danh nghĩa "cứu nước". Những người lãnh đạo độc tài Cộng sản miền Bắc đã khai dụng một nền văn hóa vốn đề cao tư duy rập khuôn, cổ vũ sự phục tùng vô điều kiện và tạo điều kiện cho sự nô dịch tư tưởng và họ đã thành công.
Văn hóa ở các quốc gia độc tài nói chung và Việt Nam nói riêng biến con người thành công cụ cho những mưu đồ chính trị chứ không cho phép con người được tư duy độc lập và sáng tạo. Ở đó, con người sẵn sàng tin vào huyền thoại hơn là dám dũng cảm đối mặt với thực tế, thích dựa dẫm vào vĩ nhân hơn là tin tưởng vào năng lực cá nhân...Sau này, nhà cầm quyền Việt Nam càng thành công hơn khi thông qua giáo dục và tuyên truyền nhằm xuất xưởng hàng triệu bộ não thanh niên bị ám thị, với sự áp đặt tinh vi và có hệ thống của chủ thuyết cộng sản.
Thật đáng ngại vì văn hóa Việt Nam ngày hôm nay vẫn chưa hội đủ những yếu tố cần thiết cho một sự nhận thức mới - nhận thức về tự do và công lý, đặc biệt là quyền tự do thoát khỏi sự nô lệ hoá về tư tưởng. Đa số người Việt đã và đang nghĩ theo cách nhà cầm quyền muốn họ nghĩ, làm theo cách nhà cầm quyền muốn họ làm. Chừng nào một nền văn hoá chưa cổ vũ và tạo điều kiện cho tư duy độc lập, công cuộc xây dựng nền dân chủ còn gặp nhiều chướng ngại. Muốn sự thay đổi thể chế chính trị diễn ra một cách tích cực, người Việt Nam cần phải thay đổi não trạng theo hướng tích cực tương ứng.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Huỳnh Trọng Hiếu
Huỳnh Trọng Hiếu là blogger tự do trẻ trong nước đấu tranh cho tự do, dân chủ cho Việt Nam.
Ghi Chú
DanAp - NhanQuyen
Nếu cấm xe máy, người dân đi bằng gì?!
ĐSPL- 31/10/2013 -- Từ lâu, xe máy đã trở thành "đôi chân" nối dài, là vật bất ly thân của người dân Việt Nam. Thiếu nó, người dân sẽ chẳng biết sinh hoạt thế nào. Sự phụ thuộc quá nhiều vào xe máy đã tạo cho người Việt một thói quen không thể bỏ, từ đó hình thành nên nền "văn minh xe máy".
Thế nên mới có chuyện, nếu ai đó nêu ra ý tưởng cấm xe máy, lập tức mọi người sẽ nhìn anh ta lạ lùng như người sao Hỏa. Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, thay vì đề xuất cấm triệt để xe máy, hãy nghĩ đến những giải pháp khác sao cho "vẹn cả đôi đường".
Cấm xe máy, người dân đi bằng gì?
"Thủ phạm" của tai nạn, nhếch nhác
Cách đây 2 năm, một lãnh đạo của Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia đưa ra đề xuất, cần có lộ trình giảm xe máy trong cả nước, riêng đối với Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh cần tiến tới cấm xe máy trong nội đô. Gần như ngay lập tức ý kiến của vị này đã khiến dư luận phản ứng dữ dội. Sự phản ứng mạnh đến mức, người đứng đầu ngành giao thông đã phải đăng đàn thanh minh rằng không có quyết định hay kế hoạch cấm xe máy để xoa dịu. Nói qua cũng phải nói lại, phản ứng trên hoàn toàn không phải là nhất thời. Cần nói thêm rằng, thời điểm đó, hơn 5 triệu người Việt đang sử dụng xe máy làm phương tiện lưu thông. Mục đích của những người làm giao thông là tốt, nhưng chắc hẳn họ chưa thấy hết phản ứng từ phía dư luận. Nói như lời một chuyên gia, xe máy là "đôi chân" của người dân, nếu chúng ta "cưa" đôi chân này thì người dân đi bằng gì?
Cũng từ đó đến nay, đề xuất cấm xe máy gần như rơi vào trạng thái quên lãng. Thi thoảng, có những ý kiến le lói bày tỏ quan điểm về việc cấm xe máy đăng tải trên mặt báo nhưng phần đông nghiêng về phản đối hơn là ủng hộ, chia sẻ. Năm tháng trôi qua, ý tưởng vẫn nằm trên giấy, cả cơ quan chức năng lẫn giới chuyên gia đều ngại nhắc đến. Thế nhưng, những ngày qua, đề xuất này một lần nữa lại được xới lên. Dư luận nổ ra cuộc tranh cãi về việc xe máy có là "thủ phạm" chính dẫn đến sự xập xệ, nhếch nhác, khó phát triển tại các đô thị của Việt Nam hay không và liệu đã đến lúc cấm triệt để xe máy chưa.
Xét trên góc độ cơ động, linh hoạt, không thể phủ nhận, xe máy là phương tiện giao thông tuyệt vời, không có đối thủ cạnh tranh. Nhưng công bằng mà nói, nó cũng là "thủ phạm" số một về tai nạn giao thông. Đối với nhiều quốc gia, xe máy bị xếp vào hàng phương tiện giao thông nguy hiểm, không khuyến khích sử dụng, thậm chí bị cấm ở nhiều thành phố. Không phải ngẫu nhiên khi người ta gọi nó bằng cái tên "hung thần đường phố". Vận tốc có thể đạt ngang ô tô nhưng độ an toàn chỉ tương đương xe đạp, là những "ưu thế" nổi bật của phương tiện này. Tai nạn xảy ra hàng ngày, hàng giờ trên khắp các cung đường của nước ta đã minh chứng cho điều đó. Theo thống kê, mỗi năm nước ta có hàng chục nghìn người chết vì tai nạn giao thông, trong đó xe máy là một trong những "tội đồ" hàng đầu.
Chưa hết, xe máy cũng là nguyên nhân gây nhếch nhác, mất mỹ quan đô thị. Việc dừng, đỗ xe máy trên vỉa hè, lòng đường làm mất mĩ quan đường phố. Người điều khiển xe máy lạng lách, đánh võng tạo nên một bức tranh giao thông hỗn loạn. Nói như lời TS. Lương Hoài Nam, nguyên TGĐ Jetstar Pacific, xe máy là yếu tố duy trì kiểu sống phát sinh nhiều rác thải. Sự tiện lợi của xe máy dừng bất kỳ chỗ nào sinh ra hàng quán, chợ cóc vỉa hè thay cho các nhà hàng, siêu thị sạch sẽ, văn minh. Sự phát triển tràn lan hàng quán, chợ cóc vỉa hè sản sinh ra một lượng rác thải khổng lồ không được xử lý mà được đổ ngay ra vỉa hè, lòng đường, làm ô nhiễm không khí và nguồn nước. Hiếm có nước nào mà rác rưởi, bụi bặm nhiều như Việt Nam, kể cả ở các nước nghèo hơn. Có thể nói, còn rất nhiều "thói hư tật xấu" mà nền "văn minh xe máy" đang mang đến cho người dân. Nên chăng, cần có lộ trình cấm xe máy tại thủ đô Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh?
Cần có giải pháp "sống chung"
Trao đổi với PV, TS. Nguyễn Xuân Thủy, nguyên Giám đốc NXB Giao thông nhận định, xe máy không hoàn toàn là nguyên nhân chính gây ùn tắc giao thông tại Hà Nội và TP.HCM. Theo phân tích của TS. Thủy, một chiếc xe hơi chiếm dụng mặt đường bằng 4 - 6 xe máy. Số người ngồi thực tế trên xe ô tô không phải khi nào cũng đạt với diện tích chiếm mặt đường tương ứng, do đó ô tô cá nhân mới là nguyên nhân chính gây ra ùn tắc. "Cấm xe máy tại nội đô là điều không thể. Nhưng về lâu dài, tôi cũng đồng tình với chủ trương hạn chế xe máy, ưu tiên chuyển sang sử dụng phương tiện công cộng", TS. Thủy nói thêm.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam cho rằng, nếu đặt mục tiêu giảm tai nạn giao thông tại các thành phố bằng việc hạn chế hay cấm xe máy cũng không phải là lý do thuyết phục. Ông này đưa ra con số chứng minh, xe máy lưu thông trong thành phố với tốc độ trung bình từ 20 - 30km/giờ nên ít xảy ra tai nạn, nếu tai nạn cũng không thực sự nghiêm trọng. "Xe máy đang là phương tiện chiếm số đông, cũng là phương tiện kiếm sống của một bộ phận lớn người dân. Nếu cấm xe máy sẽ khó tránh khỏi bức xúc trong dư luận", ông này nhấn mạnh.
Các chuyên gia đều có chung nhận định, giao thông đô thị là bài toán tổng thể của các thành phố. Việc tiến đến cấm xe máy chưa đánh trúng "căn bệnh" giao thông hiện nay. Do đó, không thể cấm mà phải tạo thêm thuận lợi cho phương tiện này để "sống chung" như làm thêm cầu nhẹ, đường giành riêng cho xe gắn máy.
Vẫn phải sống chung với xe máytrong 10 năm nữa
Một chuyên gia nguyên là Bộ trưởng bộ GTVT cho rằng, trong 10 năm nữa chúng ta vẫn sống chung với xe máy. Giao thông tại Việt Nam là hỗn hợp, xe máy chiếm số lượng lớn nhất. Do đó, phải có những giải pháp đồng bộ về hạ tầng và phương tiện. Trong đó, các đường cao tốc mới phải thiết kế xây dựng đường gom cho xe máy; còn các hệ thống giao thông hiện tại chưa có điều kiện nâng cấp, xây mới thì khi tổ chức giao thông phải làm được đường làn đường dành riêng cho xe máy.
Anh Văn
Ghi Chú
XaHoi - ThoiSu
MC Kỳ Duyên bị hàng trăm người 'ném đá' vì chê văn hóa Việt
(GDVN) -"Thật đáng buồn khi một người có nhan sắc xinh đẹp, có hiểu biết, có bằng cấp như Nguyễn Cao Kỳ Duyên lại mang trong mình những suy nghĩ lệch lạc như vậy. Cái nhìn của cô với người dân Việt Nam là quá phiến diện, nó không thể dùng để đánh giá cả một dân tộc được", độc giả Quan Công bức xúc.
Vừa qua, nữ MC hải ngoại Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã có những dòng tâm sự về sự khác biệt giữa văn hóa Việt và phương Tây. Theo chia sẻ của cô thì văn hóa phương Tây thiên về khuyến khích, còn văn hóa Việt thiên về chỉ trích. Trước sự so sánh này, Kỳ Duyên đã khiến không ít độc giả bức xúc cho rằng, đó là suy nghĩ ấu trĩ, Kỳ Duyên chưa bao giờ hiểu hết bản sắc người Việt Nam. Rất nhiều những ý kiến, những bình luận của độc giả gửi về, chia sẻ suy nghĩ và bày tỏ ý kiến về nhận định của nữ MC hải ngoại về văn hóa Việt.
Bày tỏ quan điểm của mình, độc giả Ngọc Thúy viết: "Văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng quá nhiều vào Nguyễn Cao Kỳ Duyên khiến cô mất đi những phẩm chất đáng quý của người dân Việt Nam, mất đi cái truyền thống đoàn kết của dân tộc. Cô sống theo phong cách phương Tây, sống cho mình, sống cuộc sống nhỏ bé, không như những người dân Việt Nam. Tuy nhiên, con người Việt Nam sống không chỉ vì mình mà vì gia đình vì đất nước và vì đồng bào. Bởi vậy mà Kỳ Duyên hãy nhìn nhận vấn đề theo nhiều khía cạnh và sẽ tìm lại được những phẩm chất của con người Việt Nam vốn có trong mình". Độc giả Huỳnh Trang bày tỏ sự bức xúc trước suy nghĩ của nữ MC hải ngoại về văn hóa Việt: "Cho mình cái quyền tự nhận định, đánh giá người khác mà không biết mình hiểu như thế nào về người khác". Lập luận trước ý kiến và suy nghĩ của Kỳ Duyên khi so sánh văn hóa Việt Nam cùng với minh tinh Angelina Jolie, bạn đọc có tênTomođưa ra quan điểm cho rằng, đúng là môi trường sống quyết định nhiều đến tính cách và quan điểm sống con người đặc biệt là qua tự nhận banana của Kỳ Duyên: "Ngoài màu vàng nhưng trong màu trắng, chỉ vóc dáng cô vẫn là người Việt. Cô nói: “Văn hóa ngoại quốc khi làm điều gì tốt đều được khen ngợi khuyến khích. Còn văn hóa mình thì ngồi rình để chỉ trích”. Nói vậy là thiếu suy nghĩ. Nói vậy là hoàn toàn sai. Chẳng có văn hóa nước nào “ngồi rình để chỉ trích", nhất là chỉ trích người làm việc thiện. Thế đứng của cô là ở đâu? Đừng chân bước tới mà đầu quay nhìn lại phía sau",độc giả này không giấu được sự bức xúc. Độc giả Mai Bảo Anh nhận xét: "Một con người được sinh ra trên đất nước Việt Nam nhưng tiếp thu những tư tưởng văn hóa từ đất nước với quá nhiều cái tự do. Kỳ Duyên không nhận là người dân Việt Nam cũng được, nhận mình là "banana" cũng được. Nhưng Kỳ Duyên nên có những cái nhìn đúng đắn hơn nữa về dân tộc Việt Nam, đừng có quá phiến diện, đừng có quá vơ đũa như vậy! Nickname Lê Kim tha thiết mong suy nghĩ không đúng về người Việt của nữ MC hải ngoại hãy dừng lại: "Đừng mạo danh người ta để phát biểu những gì không phải của người ta. Đừng bí lối mà dùng lời lẽ để triệt hạ uy tín và bản sắc văn hóa người Việt. Xin dừng lại và không nên tiếp tục có suy nghĩ này"./.
|
Ghi Chú
XaHoi - GiaoDuc
Ninh Thuận-1 'giống nhà máy điện TQ'
BBC - 31/10/2013
Nhà thiết kế của Nga cho hay nhà máy điện nguyên tử đầu tiên của Việt Nam đặt ở tỉnh Ninh Thuận sẽ giống mô hình nhà máy Điền Loan, Trung Quốc.
Nhà máy Ninh Thuận-1 sẽ được xây dựng với vốn vay 8 tỷ đôla của Nga. Tập đoàn Rosatom của Nga là đơn vị thi công.Chính phủ Việt Nam đã lên kế hoạch xây hai nhà máy điện sử dụng hạt nhân ở tỉnh duyên hải này.
Hiện dự án này đang khởi động và tới đầu năm 2014 sẽ khởi công phần hạ tầng cho xây dựng nhà máy.
Đài Tiếng nói nước Nga hôm 31/10 dẫn nguồn E4 Group, tập đoàn chịu trách nhiệm làm báo cáo khả thi cho Rosatom, cho hay tại nhà máy Ninh Thuận-1, "tiêu chuẩn công nghệ và các thiết bị tương tự như được sử dụng trong xây dựng giai đoạn đầu tiên và thứ hai của máy điện hạt nhân Điền Loan ở Trung Quốc".
Nhà máy điện hạt nhân Điền Loan ở tỉnh Giang Tây, nằm trên bờ Hoàng Hải, do tập đoàn Atomstroyexport của Nga xây dựng và là nhà máy điện lớn nhất Trung Quốc hiện nay.
An toàn hạt nhân
Đài Tiếng nói nước Nga cũng cho hay thiết kế tối ưu cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận-1 là phương án AES-91 của Viện Nghiên cứu khoa học và thiết kế công nghệ năng lượng Nga (VNIPIET), trụ sở chính ở St Petersburg.
Phương án này được nói "cho phép sử dụng tối đa công suất lưới điện của Việt Nam, cũng như giảm chi phí xây dựng".
"Dự án hoàn toàn phù hợp với yêu cầu hậu Fukushima đối với điện hạt nhân."
An toàn nguyên tử là quan tâm và quan ngại lớn nhất của người dân trong nước, trong khi Chính phủ tỏ ra quyết tâm phát triển điện hạt nhân.
Vấn đề an toàn điện hạt nhân ở Việt Nam, theo giới chức trong nước, tập trung vào ba nội dung chính: Đánh giá tác động môi trường; quản lý môi trường (bức xạ và phi bức xạ) trong xây dựng và vận hành; quan trắc phóng xạ môi trường và văn hóa an toàn.
Ngoài NInh Thuận-1, vào tháng 9/2011 công ty Nhật Bản Japan Atomic Power đã ký hợp đồng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho một báo cáo khả thi đối với nhà máy điện hạt nhân thứ hai ở Ninh Thuận - dự kiến sẽ sử dụng công nghệ Nhật.
Chính phủ Việt Nam dự tính xây 13 lò phản ứng ở tám nhà máy với tổng công suất 15.000 megawatt vào năm 2030.
Ghi Chú
XaHoi - ThoiSu
Những cái chết đau lòng vì nâng ngực ở Sài Thành
KENH13.INFO- 31/10/2013
Những cái chết đau lòng của phái nữ vì mong muốn cải thiện sắc đẹp vẫn luôn là ám ảnh của nhiều người.
Giao tính mạng cho lang băm nâng ngực
Thông tin về trung tâm thẩm mỹ ở thủ đô Hà Nội làm chết người rồi vứt xác phi tang xuống sông Hồng khiến người dân Việt vô cùng bức xúc và hoang mang. Đây không phải là lần đầu tiên ở Việt Nam có người tử vong do phẫu thuật thẩm mỹ, trước đây cũng đã có nhiều trường hợp tử vong tương tự xuất phát từ nhu cầu làm đẹp của phái yếu.
Chị Nguyễn Thị C. ở đường Trần Xuân Soạn, phường Tân Kiểng, quận 7 là một minh chứng. Chị C. cũng như nhiều người phụ nữ khác, không cảm thấy hài lòng với bộ ngực của mình. Hàng ngày, đọc sách báo có những dòng quảng cáo về phẫu thuật thẩm mỹ, giấc mơ về việc nâng cấp vòng 1 của chị cũng chỉ là giấc mơi bởi chi phí cho một ca cải thiện “núi đôi” lên tới vài nghìn USD.
Năm 2006, chị C. quyết định làm ngực của một “trung tâm thẩm mỹ… dạo”. Đó là vào 21.2.2006, chị C. gặp một “lang băm” đi ngang với một chiếc bảng chữ treo trước xe: “Xăm lông mày, làm đẹp, nâng ngực giá rẻ”. Chị C. gọi vào nhà của mình. Sau một hồi trao đổi giá cả, chị chấp nhận nâng vòng 1 ngay tại nhà.
Chị C. nằm trên giường để lang băm bơm trực tiếp một loại chất lỏng vào hai bầu ngực. Ban đầu, chị C. cũng cảm thấy thích thú với hai bầu ngực căng tròn. Tuy nhiên, niềm vui đã vội tắt ngấm vì chỉ sau một ngày, chị cảm thấy tức ngực, khó chịu. Sợ hãi nhưng ngại với người thân nên chị chịu đau đớn một mình.
Trưa 22.2.2006, người thân phát hiện chị C. bị sùi bọt mép, hôn mê nên vội vàng đưa đến bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu. Các bác sĩ ở đây cho biết, chị bị suy hô hấp nặng, nước vàng rỉ ra từ hai lỗ bơm trên hai ngực. Mặc dù được bác sĩ, y tá cấp cứu, nhưng do chị C. đã tử vong sau hai ngày nhập viện.
Người quen phẫu thuật cũng tử vong
Chị Vũ Thị Bích T. (40 tuổi, ngụ quận Tân Bình, TP.HCM) từng đi phẫu thuật nâng ngực vào năm 2000. Đến 2006, ngực của chị bỗng nhiên bị biến chứng, sệ xuống. Do có quen biết với bác sĩ L.B.H. (nguyên bác sĩ tại bệnh viện Bình Dân, TP.HCM) nên chị T. đến xin tư vấn.
Sau khi khám, bác sĩ H. cho biết, đối với trường hợp của chị T. thì vẫn có thể phẫu thuật. Đồng thời, bác sĩ này tư vấn nên đến phòng mạch riêng của mình trên đường Trần Khắc Chân (quận 1).
Do bác sĩ H. là người quen nên chị T. rất tin tưởng và đồng ý. Sáng 4.2.2006, chị T. cùng em gái đến phòng khám theo lịch hẹn từ trước. Sau đó, chính bác sĩ L.B.H. trực tiếp phẫu thuật với sự hỗ trợ gây mê của bác sĩ T.T.M.H (cũng nguyên là bác sĩ tại bệnh viện Bình Dân) và hỗ trợ kỹ thuật của một bác sĩ, điều dưỡng khác.
Chỉ một vài vết mổ được thực hiện thì chị T. có dấu hiệu bất thường, người tím tái, co giật… Ngay lập tức, các bác sĩ ngưng việc phẫu thuật, thay vào đó là sơ cứu. Thấy chị T. vẫn không có dấu hiệu thuyên giảm nên bác sĩ H. đề nghị đưa chị đến bệnh viện cấp cứu. Tuy nhiên, nạn nhân đã tử vong sau đó.
Công an điều tra vào cuộc và phát hiện, bác sĩ H. phẩu thuật thẩm mỹ tại phòng khám là làm trái quy định. Bởi phòng khám này chỉ được phép tiểu phẫu ngoại khoa chứ không có chức năng phẫu thuật thẩm mỹ.
Theo kết luận giám định pháp y, nguyên nhân gây nên cái chết của chị T. là do sốc phản vệ. Bên cạnh đó, cơ quan chuyên môn cho rằng, việc bác sĩ H. tiến hành gây mê tĩnh mạch để phẫu thuật cho bà T. trong điều kiện thiếu các phương tiện về cấp cứu hô hấp như mặt nạ, đèn soi thanh quản, bóng Ambu…
Trong vụ án này, cả hai bác sĩ L.B.H và T.T.M.H đều bị khởi tố về tôi “vi phạm qui định về khám chữa bệnh”. Vụ án được TAND quận 1 (TP.HCM) xét xử và tuyên phạt hai bác sĩ này, mỗi người phải nhận 1 năm 3 tháng tù treo.
(Tri Thức Thời Đại)
Ghi Chú
XaHoi - ThoiSu
Cựu cầu thủ Brazil bị chặt đầu, vứt trước cửa nhà!
KENH13.INFO- 31/10/2013
Cựu cầu thủ bóng đá Brazil, Joao Rodrigo Silva Santos vừa bị phát hiện trong tình trạng đầu lìa khỏi thân và bị vứt tại cửa nhà riêng. Trước đó, anh này đã bị bắt cóc.
Sáng thứ Hai vừa qua, một ngày như bao ngày, Joao Rodrigo Silva Santos lấy xe hơi, chào tạm biệt vợ con và phóng đi làm. Khi tới gần địa điểm làm việc là một cửa hàng, anh dừng lại trải chuốt lại quần áo. Bất ngờ một nhóm tội phạm ập đến và khống chế Santos. Sau đó chúng dùng chính chiếc xe của anh để đưa anh tới hang ổ.
Gia đình bủa đi tìm, báo cảnh sát. 2 ngày sau, vợ của anh, một nữ nhân viên cảnh sát phát hiện một chiếc túi màu đen to để ngoài cửa. Khi cô mở ra, trước mắt là một cảnh tượng hãi hùng. Không thấy xác đâu mà chỉ thấy cái đầu của Santos. Không những thế, chiếc đầu còn bị móc mắt và cắt mất lưỡi.
“Không có gì có thể biện minh cho tội ác của chúng”, cảnh sát trưởng thành phố Rio de Janeiro, Rafael Rangel tỏ rõ sự tức giận. “Bà Santos không biết kẻ nào đã làm việc này. Trước đó, gia đình họ sống hòa đồng với mọi người và không nhân được bất cứ lời đe dọa nào. Chúng tôi sẽ huy động lực lượng để điều tra rõ mọi việc”.
Santos năm nay 35 tuổi, là một nhân viên bán hàng. Trước đó, anh từng làm một cầu thủ chuyên nghiệp, từng thi đấu cho các đội bóng nhỏ thuộc Thụy Điển, Honduras và xung quanh thành phố Rio de Janeiro. Santos mới chỉ treo giày hồi năm 2011 và chuyển sang làm một công việc khác có thu nhập ổn định hơn.
Trước vụ Santos, thành phố Rio de Janeiro đã bị rúng động bởi một cuộc đọ súng giữa cảnh sát và bọn tội phạm. 7 kẻ bị tình nghi đã bị bắn hạ. Thành phố Rio de Janeiro vốn tồn tại rất nhiều khu ổ chuột và tình trạng tội phạm thì tràng lan. Những vụ bắt cóc, buôn bán ma túy, đánh nhau… xảy ra như cơm bữa.
(Người Đưa Tin)
Ghi Chú
TheThao - QuocTe
Tại sao Việt Nam muốn nói khác Trung Quốc ở Biển Đông?!
VRNs (01.11.2013) – Washington DC, USA – Bài viết này nhằm “nói cho đúng hơn” những gì hai ông Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biến giới Chính phủ Việt Nam và Nguyễn Bắc Son, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông nói “không chính xác” về Trung Quốc và Biển Đông vì dường như phía Việt Nam không muốn nhìn nhận để bảo vệ chính trị nội bộ.
Về trường hợp Tiến sỹ Trần Công Trục, trong cuộc phỏng vấn đăng trên báo Giáo dục Việt Nam ngày 18.10.2013 ông đã đưa ra quan điểm cá nhân, theo lối suy nghĩ của riêng ông để “diễn nghĩa” và bác bỏ những “kết luận chủ quan” của phiá Bắc Kinh và báo chí Trung Quốc đối với thỏa hiệp “hợp tác trên biển” giữa Trung Quốc và Việt Nam sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày, từ 13 đến 15.10 (2013) của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường.
Ông Trục nói: “Theo dõi chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và những kết quả 2 bên đã đạt được, tôi cho rằng cả Việt Nam và Trung Quốc đã có những nỗ lực rất lớn trong việc củng cố quan hệ hợp tác cùng có lợi, giảm thiểu và hướng tới giải quyết các bất đồng, nhất là vấn đề trên biển, đó là một thành công lớn.
Tuy nhiên để hiểu rõ mức độ thành công của chúng ta cũng như thành công theo quan điểm của người Trung Quốc về vấn đề hợp tác trên biển qua những thỏa thuận đã đạt được, có lẽ dư luận cũng cần hiểu rõ Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc vừa qua có gì mới, có gì khác so với trước? Tại sao phía Trung Quốc rất quan tâm đến tuyên bố này và ca ngợi rằng đó là “bước đột phá”?
Thực tế 2 bên có những giải thích khác nhau theo ý định, quan điểm và lập trường của mình, chúng ta cần hiểu điều này như thế nào? Những vấn đề này rất quan trọng đối với chúng ta trong khi tiếp tục công cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc đồng thời góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.”
Là một chuyên viên từng nói chuyện phân định biên giới với Trung Quốc nên ông Trục hiểu rõ “cách nghĩ” của đối phương tại bàn hội nghị như thế nào, vì vậy lối giải thích của ông về nội dung bản Tuyên bố chung Việt-Trung công bố tại Hà Nội ngày 15.10.2013 đã có đo lường và không thể coi như “nói cho xong chuyện”.
Chỉ có điều không rõ là liệu quan điểm của ông có phản ảnh đúng với “sự thật” không được viết ra trong Tuyên bố chung khiến ông phải mất công giải thích dùm cho Chính phủ, trong khi ba người có trách nhiệm trực tiếp là Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Ngọai giao Phạm Bình Minh lại nín thinh ?
Tiến sỹ Trục nói tiếp: “Nội dung được xem là mới mà Trung Quốc đang ca ngợi là “bước đột phá”, “thành quả quan trọng” trong tuyên bố lần này theo tôi lại là một nội dung có tính chất nguyên tắc: Hai bên “tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.” Bản chất vấn đề và sự khác biệt trong cách nhận thức, lý giải của 2 bên nằm ở đây.
Cần phải nhắc lại rằng từ xưa đến nay Trung Quốc vẫn muốn thực hiện chủ trương“chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” đã có từ thời Đặng Tiểu Bình và bây giờ Tập Cận Bình nhắc lại và không có gì thay đổi. Và tất nhiên không ai có thể chấp nhận chủ trương này.
Trong thỏa thuận chung hai bên đạt được lần này họ không thể đưa câu “chủ quyền thuộc Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” vào Tuyên bố chung, thay vào đó Trung Quốc đồng ý “tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng lập trường và chủ trương của mỗi bên”.
Theo Tiến sỹ Trục thì: “Phía Trung Quốc coi đây là “bước đột phá” vì theo cách hiểu của họ, điều này đồng nghĩa với việc yêu sách vô lý của họ ở Biển Đông họ vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi. Thời báo Hoàn Cầu hay một số tờ báo khác của Trung Quốc cũng lợi dụng điểm này để cho rằng việc Việt Nam đồng ý về mặt nguyên tắc giải quyết các vấn đề trên biển đồng nghĩa với việc Việt Nam chấp nhận quan điểm của Trung Quốc hòng gây hiểu lầm trong dư luận, chia rẽ nội khối ASEAN khi khiến cho các bên nghĩ rằng Việt Nam “đi đêm” với Trung Quốc.”
Có điều ngạc nhiên là sau khi báo chí Trung Quốc, kể cả tờ Thời báo Hòan Cầu, đồng loạt căn cứ vào lời tuyên bố của ông Lý Khắc Cương để đưa tin lạc quan về kết qủa “hợp tác cùng phát triển” trên Biển Đông giữa hai nước Trung-Việt thì không có bất cứ cơ quan ngôn luận nào của Việt Nam, chính thống và bán chính thống, đã viết bài phán bác lại lối suy luận “đi đêm” được coi là “trái chiều”, nếu căn cứ theo quan điểm của Tiến sỹ Trục, có hại cho uy tín và lập trường của Việt Nam về vấn đề “nhạy cảm” này.
Vì vậy ông Trần Công Trục đã khẳng định: “Không bao giờ có chuyện đó, bởi đây là 2 vấn đề hoàn toàn khác nhau, “không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên” không có nghĩa là ta thừa nhận chủ trương, lập trường của Trung Quốc ở Biển Đông.
Cựu Trưởng ban Biên giới Chính phủ khuyên Nhà nước nói thêm: “Một “bước đột phá” nữa theo quan điểm của Trung Quốc mà chúng ta cũng cần hết sức lưu ý và giải thích rõ trước dư luận trong nước, khu vực và cộng đồng quốc tế để tránh những hiểu lầm không đáng có mà Trung Quốc lại đang muốn tạo ra, đó là phạm vi mang tính nguyên tắc chung: “về hợp tác trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Vì đây là nguyên tắc, thỏa thuận chung nhất nên chúng ta không ghi vùng biển cụ thể nào, mà là “hợp tác trên biển”, nhưng Trung Quốc đang tìm cách giải thích rằng các giải pháp tạm thời giữa 2 bên không chỉ áp dụng cho khu vực cửa vịnh Bắc Bộ mà còn áp dụng cho toàn bộ Biển Đông.”
“Chính điều này sẽ khiến dư luận khu vực và quốc tế nghĩ là chúng ta chấp nhận quan điểm “đàm phán tay đôi” của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng 4 nước 5 bên khác cũng yêu sách chủ quyền.”
Đúng như ông Trục nói vì tất cả báo chí Trung Quốc, quan trọng nhất là bài viết tiếng Anh của Tân Hoa Xã (Xinhua News Agency), cơ quan thông tấn chính thức của Trung Cộng, đã đặt tựa “Chinese premier calls Southeast Asian tour “complete success“, ngày 16.10.2013 (Thủ tướng Trung Quốc nói chuyến đi Đông Nam Á “thành công mỹ mãn”), trong đó đã viết rõ như thế này:
“Li noted that in his talks with Vietnamese Premier Nguyen Tan Dung, they agreed to build three work groups respectively on maritime exploration, onshore infrastructure and financial cooperation, which are expected to start their work within this year.
(Tạm dịch: “Ông Lý nói rằng trong cuộc nói chuyện với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, hai ông đã đồng ý thành lập ba nhóm công tác khai thác trên biển, hợp tác trên đất liền và hợp tác tài chính. Cả ba nhóm cùng khởi sự làm việc trong năm nay.”)
“The cooperation of maritime exploration will be primarily focused on the Beibu Gulf, and later extended to further areas, Li said, adding that the bilateral drive is to tell the region and the world that the South China Sea has to be a peaceful and tranquil area.
Both China and Vietnam have the wisdom to properly handle their differences and prevent the South China Sea issue from disrupting the overall cooperation, Li said.”
(Tạm dịch: “Hợp tác trên biển sẽ tiên khởi tập trung vào khu vịnh Bắc Bộ, và SAU ĐÓ MỞ RỘNG QUA CÁC KHU VỰC KHÁC, theo lời ông Lý thì sự hợp tác song phương này nhằm chứng minh với các nước trong khu vực và thế giới thấy rằng vùng biển Nam Trung Quốc sẽ là khu vực hòa bình và an tòan. Trung Quốc và Việt Nam cùng có thiện chí giải quyết những khác biệt và ngăn chặn vấn đề biển Nam Trung Quốc làm phương hại đến sự hợp tác tòan diện của hai nước.”).
Việt Nam gọi vùng biển này là Biển Đông.
AI HIỂU LẦM AI ?
Nguyên nhân được gọi là tạo ra sự hiều lầm “đi đêm” của tờ Thời báo Hòan Cầu (TBHC, The Global Times) của Trung Quốc, một bộ phận của Nhân dân Nhật báo thuộc đảng Cộng sản Trung Quốc, là do TBHC, trong số ra ngày 16.10.2013 đã trích lời bình luận về thỏa hiệp Lý Khắc Cường-Nguyễn Tấn Dũng của Aleksandr Larin, một chuyên viên thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga.
Ông Larin, theo Bản tiếng Việt đề ngày 15.19.2013 của đài “Tiếng nói nước Nga”, nhận định rằng: “Ông Lý Khắc Cường đã hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội và Tokyo đang tăng cường sự hợp tác trong lĩnh vực an ninh hàng hải. Tokyo rất khéo léo sử dụng sự lo lắng của Hà Nội trước việc Trung Quốc áp dụng nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi bằng vũ lực hiện trạng ở Biển Đông. Gần đây, bên lề Hội nghị thượng đỉnh APEC ở Indonesia, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang đã đạt thỏa thuận về sự cần thiết phải thảo ra chiến lược chung về an ninh hàng hải.
Trong khi đó, Nhật Bản cố gắng củng cố quan hệ đối tác với các nước khác trong khu vực có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Một thí dụ cho điều đó có thể là hợp đồng về cung cấp 10 tàu tuần tra Nhật Bản cho cảnh sát biển Philippines. Đợt cung cấp này sẽ củng cố khả năng của Manila trong cuộc đối đầu hải quân với Trung Quốc.”
Ông Larin nói tiếp: “Bắc Kinh đã nắm bắt được sáng kiến của Tokyo về việc tổ chức cuộc hội đàm với Hà Nội. Đặc biệt là, Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ với Philippines là phức tạp hơn. Mỹ đã bố trí mạng lưới dày đặc ở Philippines. Washington sẽ không cho phép Bắc Kinh rút Manila khỏi quỹ đạo ảnh hưởng của họ, bởi vì trong trường hợp này Mỹ sẽ mất một trong những đòn bẩy để kiềm chế Trung Quốc.
Dù thế nào đi nữa, từ Hà Nội, Bắc Kinh phô quả đấm không chỉ với Tokyo mà cả với Manila. Có vẻ như thỏa thuận Việt-Trung có thể phá vỡ các nỗ lực nhằm thành lập liên minh chống Trung Quốc gồm các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.”
Chính kết luận này của chuyên viên Aleksandr Larin đã gây chú ý cho Ban biên tập báo Giáo dục Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Hiệp hội các trường Đại học, Cao Đẳng, Ngòai Công Lập Việt Nam và Tiến sỹ Trần Công Trục.
Tác gỉa Hồng Thủy viết trong số báo Giáo dục Việt Nam ra ngày 17.10.2013: “Thời báo Hoàn Cầu ngày 16.10 có bài đánh giá, “tổng hợp báo chí nước ngoài” về chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường theo hướng cố tình lái dư luận đánh đồng kết quả tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa 2 nước với vấn đề Biển Đông và nhằm vào bên thứ 3.
Hoàn Cầu dẫn nguồn tin đài Tiếng nói nước Nga cho rằng việc Việt Nam và Trung Quốc nỗ lực quyết tâm “giải quyết vấn đề Biển Đông” một cách hòa bình “đã đập tan ý đồ của Philippines và Nhật Bản trong việc lôi kéo các nước có tranh chấp với Trung Quốc hình thành liên minh chống Bắc Kinh”?!
Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc sau chuyến thăm của ông Lý Khắc Cường đến Việt Nam đã nói rất rõ những nguyên tắc chung nhất mà 2 bên đồng ý để giải quyết những bất đồng trên biển, thành lập tổ công tác hợp tác trong các vấn đề ít nhạy cảm trên biển, ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và những giải pháp tạm thời không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên.
Cách đưa tin lập lờ của Thời báo Hoàn Cầu hòng khiến dư luận khu vực và cộng đồng quốc tế hiểu lầm rằng Việt Nam đang đi đêm với Trung Quốc bất chấp một thực tế Việt Nam luôn chủ trương nhất quán giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế và không đi với nước này để chống nước kia.”
Nếu so sánh giữa lời tuyên bố của Thủ tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường rằng:“Hợp tác trên biển sẽ tiên khởi tập trung vào khu vịnh Bắc Bộ, và SAU ĐÓ MỞ RỘNG QUA CÁC KHU VỰC KHÁC” với ngôn ngữ “rất mập mờ” của Tuyên bố chung viết rằng: “Hai bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai bên đồng ýthành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam -Trung Quốc” thì có gì khác nhau lắm không ?
“TẠM THỜI” Ở ĐÂU RA ?
Có điểm KHÁC BIỆT QUAN TRỌNG cần nói thêm lần nữa ở đây (tôi đã viết một lần trong bài “Việt Nam đã mất biển và chủ quyền chưa ?”) đã ghi rõ trên giấy trắng mực đen, giữa 6 điểm thỏa hiệp trong “nguyên tắc chỉ đạo” ngày 11.10.2011 tại Bắc Kinh và Tuyên bố Hà Nội 15.10.2013 là hai chữ “TẠM THỜI” đã KHÔNG CÒN trong Tuyên bố Hà Nội.
Trong Thỏa hiệp 6 điểm được ký giữa Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngọai giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn, và Trương Chí Quân, Thứ trường Bộ Ngọai giao Trung Cộng), có sự chứng giám của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào thì có chữ “Tạm Thời” ghi trong điểm 4 nguyên văn như sau:
(4) “Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính Quá độ, Tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểnm (2) viết: “Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
“ QÚA ĐỘ” có nghĩa là chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác, nhưng đang ở giai đọan trung gian (theo Đại từ diển Tiếng Việt-Bộ Giáo dục-Đào tạo, xuất bản năm 1999).
Như vậy thì có phải, từ sau Tuyên bố Hà Nội 15.10.2013, chuyện “Tạm Thời” đã thành “Vĩnh Viễn” ?
Nhưng tại sao Tiến sỹ Trần Côn g Trục và Tác giả Hồng Thủy của báo Giáo dục Việt Nam đã lấy ở đâu ra mấy chử “Giải Pháp Tạm Thời” để diễn nghĩa trong lời nói cũng như bài viết ?
Nếu nhằm “nói cho rõ” thì dựa trên cơ sở nào ? Văn kiện nào ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hà Nội ngày 13.10.2013 đã nói “Giải pháp Tạm thời” như thế ?
Hãy nghe Tiến sỹ Trần Công Trục lý giải: “Giải pháp mang tính quá độ” trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc hay còn gọi là giải pháp tạm thời không phải là giải pháp chung chung mà ai đó có thể tùy tiện đặt ra. Nó được quy định rất rõ trong UNCLOS mà cả Việt Nam, Trung Quốc, Philippines đều là thành viên, đã phê chuẩn và phải có nghĩa vụ tuân thủ.
Theo đó khi các nhóm công tác về vấn đề hợp tác trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ngồi lại với nhau, muốn tìm ra các giải pháp tạm thời này thì đầu tiên phải xác định được vùng chồng lấn theo quy định của UNCLOS. Và đương nhiên quy định của UNCLOS rất rõ ràng, đường lưỡi bò mà Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông hoàn toàn không có bất cứ căn cứ pháp lý nào, trái ngược hoàn toàn với những nguyên tắc cơ bản trong nội dung Công ước UNCLOS, đương nhiên không ai có thể chấp nhận được.”
Lời giải của Tiến sỹ Trần Công Trục, dựa theo nội dung của Luật Biển Liên Hiệp Quốc 1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS), nếu không lầm, ghi trongĐIỀU 74 về “ Hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau” , trong đó có nói đến “dàn xếp tạm thời” ghi trong Điểm 3 nguyên văn thế này: “Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng.”
Nhưng Tuyên bố Hà Nội ngày 15.10.2013 giữa Lý Khắc Cường và Nguyễn Tấn Dũng KHÔNG làm gì có ghi “tạm thời” như trong “nguyên tắc chỉ đạo” Bắc Kinh hay “dàn xếp tạm thời” trong UNCLOS !
Tuy vậy, Tiến sỹ Trần Công Trục vẫn bảo vệ cách “diễn nghĩa” của ông với câu nói: “Tuyên bố chung được đưa ra trong bối cảnh phía Trung Quốc tìm mọi cách hợp thức hóa yêu sách vô lý của mình và không chịu nhân nhượng hay thay đổi. Nếu chúng ta đi vào vấn đề cụ thể, khu vực cụ thể và nêu ra trong thỏa thuận, tuyên bố chung thì quan điểm của 2 bên đối ngược nhau hoàn toàn và đàm phán sẽ rơi vào bế tắc. Lúc này, chúng ta đã tỏ ra thiện chí ngồi lại đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế và đưa ra những thỏa thuận chung nhất để ngồi được với nhau, nội dung cụ thể ta bàn sau, tôi cho rằng đó đã là thành công và rất cần thiết…. Điều này không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà có ý nghĩa rất lớn đối với khu vực, nó thể hiện rõ thiện chí của chúng ta trong việc đối thoại, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và tìm kiếm các giải pháp trên cơ sở luật pháp quốc tế. Chúng ta không “đi đêm” với bất cứ bên nào hay hợp tác với bên này chống bên kia mà bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng luật pháp quốc tế cũng như các giải pháp linh hoạt.”
KHÁC NHAU THẾ NÀO ?
Ngòai ra cũng cần nói thêm là tại “nguyên tắc chỉ đạo” Bắc Kinh 2011, hai nước Việt-Trung đã nói đến “luật pháp quốc tế” và “Luật biển Liên Hiệp Quốc 1982” ghi trong Điểm 2: “Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Trái lại, trong Tuyên bố Hà Nội 15.10.2013, có vẻ như hai bên đã “cố tình”, (hay Việt Nam đã bị ép ?) không nói gì đến “luật pháp quốc tế” và “Luật biển Liên Hiếp Quốc 1982”.
“Về hợp tác trên biển”, Tuyên bố chung viết thêm: “Hai bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ, Nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt – Trung và hòa bình, ổn định trên Biển Đông.”
Như thế có phải hai bên đã “dàn xếp với nhau” như “chuyện trong nhà”, không cần phải căn cứ vào luật pháp của ai ?
Đến nay, Tuyên bố Hà Nội đã qua 15 ngày thử nghiệm nhưng chỉ thấy các viên chức Trung Cộng và báo chí nước này phấn khởi. Họ coi như chuyện “xung đột” trên biển và biên giới với Việt Nam không còn nữa.
Phía Việt Nam thì tuyệt đối êm ru, coi như mọi chuyện tranh chấp với nước láng giềng 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt đã được giải quyết. Không thấy có ai thắc mắc hay bức xúc gì. Dường như nhiều bộ não từng năng động và nhạy cảm cũng đã bị chích thuốc mê nên tê cứng ráo trọi.
Báo chí đã nằm im không dám ngo nghoe và người dân thì tất nhiên mù tịt.
LẠC QUAN TẾU
Riêng có một người, Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son lại phấn khởi đến độ nói năng vượt ra ngòai sự thật mà vẫn hiên ngang kiểu “ tiếu ngạo giang hồ” không biết trời trăng mấy gió chỗ nào.
Ông nói: “Có lúc cảm giác sắp xảy ra chiến tranh” như khi có vụ cắt cáp tàu Bình Minh, tình hình rất nóng. Nhưng dưới sự chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền và điều hành của cơ quan chức năng, Việt Nam đã đấu tranh rất khôn khéo, bảo đảm hòa bình ổn định mà vẫn giữ được chủ quyền lãnh thổ.
“Đây là điểm nhấn trong kết quả 3 năm vừa qua”
Ông còn nói thêm như đinh đóng cột: “Biển Đông đã lặng sóng hơn, căng thẳng đã được giải quyết. Việt Nam cùng với các nước có tranh chấp trên biển Đông đã xây dựng tình hữu nghị, hợp tác để đấu tranh bảo vệ chủ quyền theo đúng công ước luật biển của Liên hiệp quốc năm 1982, tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) và đang đàm phán xây dựng bộ quy tắc COC.”
” Chúng ta đã quốc tế hóa được vấn đề biển Đông và đây đã trở thành một chương trình nghị sự được thừa nhận trong khu vực ASEAN” (Thời báo Kinh tế Việt Nam, 24.10.2013)
“Biển Đông đã lặng sóng hơn . Căng thẳng đã được giải quyết” là ông Son đã căn cứ vào đâu mà nói như thế ? Nếu đã được “giải quyết” thì Việt nam đã giải quyết được với ai ?
Ông Son là người đứng đầu ngành tuyên truyền cho đảng thì phải biết rõ hơn ai hết Việt Nam chỉ có “căng thẳng và xung đột với Trung Cộng” trên Biển Đông nên nếu đã được giải quyết thì khi nào và giải quyết ra sao, văn bản đâu trưng ra cho dân xem ?
Nếu chỉ nói cho vui miệng thì cựu kỳ nguy hiểm
Chuyện “đang đàm phán xây dựng bộ quy tắc COC” (Quy tắc ứng xử trên Biển Đông, Code of Conduct,COC) hãy còn xa vời lắm. Ông Sơn không biết rằng, Hội nghị tham vấn về COC giữa các cấp cao ASEAN và Trung Cộng họp ở Tô Châu trong hai ngày 14 và 15.9.2013 chỉ để “nghe nhau” rồi báo cáo lên Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngọai giao sau đó trong 2 ngày 9-10.10.2013 tại Brunei, nhưng cuối cùng cũng chỉ cố gắng “thúc đẩy sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử COC” ?
Ông Bộ trưởng có biết rằng từ lâu Trung Cộng đã thành công trong “trò chơi hõan binh”, tuy “không phản đối việc xây dựng Bộ Qui tắc ứng xử Biển Đông (COC), nhưng vẫn giữ nguyên lập trường “Vấn đề lãnh thổ phải được giải quyết thông qua đàm phán song phương. Việc xây dựng COC cần phải thận trọng” (Đài Tiếng nói Việt Nam, 15.09.2013) ?
Điều này có nghĩa, trước khi tiến đến thỏa hiệp COC giữa Trung Cộng và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) thì Trung Cộng phải đạt được thỏa hiệp về lãnh thổ, bao gồm cả tranh chấp Biển Đông với các nước có tranh chấp với họ.
Trong trường hợp “song phương” này là giữa Trung Cộng với từng nước gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Brunei và Mã Lai Á.
Vì vậy, từ lâu Bắc Kinh vẫn nói rằng “các tranh chấp ở Biển Đông không phải là một vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN, nó không nên và sẽ không ảnh hưởng đến sự hợp tác Trung Quốc – ASEAN“, theo Qũy nghiên cứu Biển Đông ở trong nước.
Lập trường này, theo Qũy nghiên cứu Biển Đông, cũng được Trung Cộng nói thẳng ra rằng họ “không muốn cộng đồng quốc tế quan tâm, can dự dù ở bất cứ góc độ, mức độ nào hay nói theo ngôn ngữ của Bắc Kinh là không muốn “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông.
Như vậy là ông Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son đã tung ra một lời nói sai sự thật, tạo hy vọng hão huyền cho người dân khi ông nói với báo chí tại Hà Nội rằng “Chúng ta đã quốc tế hóa được vấn đề biển Đông và đây đã trở thành một chương trình nghị sự được thừa nhận trong khu vực ASEAN.”
Nội dung câu nói này cho thấy ông Son “không nắm vững vấn đề”. Chuyện ASEAN đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự đã làm từ lâu vì đó là “chuyện riêng” của ASEAN. Nhưng khi ASEAN nói chuyện với Trung Cộng về Biển Đông thì Bắc Kinh lại không nói chuyện này với “ASEAN như một khối thống nhất” mà chỉ muốn nói với từng Quốc gia có tranh chấp biển với Trung Cộng mà thôi. Bởi vì 5 quốc gia như Thái Lan, Cao Miên, Lào, Burma và Tân Gia Ba không có tranh chấp biển đảo với Trung Cộng nên chính các nước này cũng “không mấy tích cực” nói chuyện với Bắc Kinh về chuyện tranh chấp của các thành viên khác !
Bài học Cao Miên, nước Chủ tịch khối ASEAN năm 2012 không chịu đưa vấn đề Biển Đông vào Chương trình nghị sự và không có Thông cáo chung của ASEAN sau kỳ họp thường niên vào năm ấy là một thí dụ có chia rẽ trong nội bộ ASEAN về vấn đề này.
Vì vậy, cái nghĩa “Chúng ta đã quốc tế hóa được vấn đề biển Đông” trong câu nói “hào sảng” của ông Nguyễn Bắc Son không “quốc tế” chút nào cả. Nếu chính xác thì nên hiểu là “khu vực”.
Như vậy, xuyên qua hai câu chuyện khác nhau, nhưng cùng nói về Việt Nam trong “gọng kìm” Trung Cộng và Biển Đông của Tiến sỹ Trần Công Trục và Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son thì ta thấy rằng hai ông đã lý giải vấn đề nhạy cảm này “theo cảm tính” nhiều hơn là bằng chứng.
Phạm Trần
Ghi Chú
ChinhTri - XaHoi
Subscribe to:
Posts (Atom)