THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

31 December 2010

Tù Cải Tạo : Tội Ác Chống Nhân Loại Của CSVN

Trại Tù Cải Tạo

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình « học tập cải tạo » của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là « cải tạo » những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch "cải tạo giết người" này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850 ngàn người dân Miền Bắc trong những cái gọi là « trại học tập cải tạo ».

Sau ngày 30/04/1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165 ngàn quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 "trại cải tạo" của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

« Học Tập Cải Tạo » Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như : Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở … Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700 ngàn nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị « cào bằng », không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15 kg gạo, 200 gr đường … Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái Quốc Hội bù nhìn "ban hành" một nghị quyết về « học tập cải tạo ». Đây là một mẻ lưới "vĩ đại" cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại « cải tạo » của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại "lao cải" (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. Theo lệnh của Hồ, Quốc Hội cộng sản đã "ban hành" một Nghị Quyết (Resolution) về « Học Tập Cải Tạo » mang số 49- NQTVQH ngày 20/06/1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã "đẻ" ra cái Thông Tư (General Circular) số 121- CP ngày 08/09/1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây :

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động ; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là « những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng ». (obstinate counter- revolutiona ry elements). Thời gian « cải tạo » được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì « cải tạo » thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi « cải tạo » là bao nhiêu ; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 850 ngàn người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra : ( … When Ho Chi Minh sent 850 ngàn Vietnamese to their graves in reeducation camps ... )

« Học Tập Cải Tạo » tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1300 ngàn người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người ; như vậy là có 6500 ngàn người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi « cải tạo » và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những « khu kinh tế mới » ; cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch "tắm máu trắng" đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49- NQTVQH ngày 20/06/1961 và Thông Tư số 121- CP ngày 08/09/1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi "học tập cải tạo », thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau :

Tội ác thứ 1 

Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 - Tội tra tấn, hành hạ (Torture)

Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu :

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói - Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no ; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12 kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo … tương đương với 12 kg gạo mà chúng gọi là "quy ra gạo ». Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ : vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì "lao động" nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không ? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc ! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa "thu hoạch" ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật "Bác"của chúng ; mỗi phần ăn được khoảng 100 gr thịt heo hay thịt trâu.

Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở … và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị … 

b. Hành hạ thể xác - Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu « lao động là vinh quang ». Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch. Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức ; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác :

* Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12 kg xuống còn 9 kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.

* Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9 kg ; nhốt trong sà lim ; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu ; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét ; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.

* Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.

* Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm "butterfly style or contorted position" bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.

Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.

Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết … 

c. Tra tấn tinh thần - Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây :

* Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) - Để mở đầu kế hoạch "cải tạo », cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm : lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội. Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là "thâu hoạch" để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như : Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi : một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh. Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh. Bài học cuối cùng là bài "lao động là vinh quang" để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
 

Xà Lim Tù VCTội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)

Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30/04/1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này - công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (ag gression) một cách phi pháp - ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30/09/1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter- revolutiona ry crimes) và rằng nếu mang ra toà án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình ; nhưng vì chính sách "khoan hồng" và sự "chiếu cố" của đảng nên những người này được đưa đi « Học Tập Cải Tạo » thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.


Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu « sát nhất nhân, vạn nhân cụ ».

* Tự phê (Confession) - Tiếp theo phần "học tập chính trị" là phần "tự phê ». Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù ; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này ; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân. Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng "trong lòng dân tộc ». Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê ; phải moi óc tìm và "phịa" ra những "tội ác" để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài "tội ác" so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.

"Tự phê" một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn … 

Tội ác thứ 3
 - Tội giết người (Murder)

Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên "chánh án" cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong "bản án giết người" đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.

Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn ; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị ; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không … 

Tôi ác thứ 4
 - Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)

Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau để tự nuôi mình ; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường ; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5
 - Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)

Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các "trại cải tạo" là 165 ngàn người
. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ ; còn tuyệt đại đa số 165 ngàn người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24/06/2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165 ngàn quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30/04/1975, trong 150 "trại tù cải tạo" của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. "Đừng nghe những gì cộng sản nói ; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm ».

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi "định cư" tại những "khu kinh tế mới" ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những "trại cải tạo ». Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49- NQTVQH ngày 20/06/1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh - cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực - là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi « Học Tập Cải Tạo » mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số "Trại Tù Cải Tạo"

Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến " … According to the published academic studies in the United States and Europe … " thì số nạn nhân và số các "trại tù cải tạo" được ước tính như sau :

* 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
* 165 ngàn nạn nhân chết tại các "trại tù cải tạo ».
* Có ít nhất 150 "trại tù cải tạo" sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian « cải tạo »

Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam.

« … according to the US Department of State, most term ranging from three to 10 years … ». Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản ; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.


Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Pro gram) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. « … The US goverrment considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an a greement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immi grate to the United States … that gives priority to those who spent at least three years in reeducation … ».

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã « cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến » … Resettling this group will be a step toward closing out this nation's debt to its Indochina wartime allies. « These people have been detained because of their closed association with us during the war », said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement … ».

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special pro gram) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Pro gram) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự : H01, H02, H10, H11, H12 … 

Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng "HO" không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng : "Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một "Chiến Dịch Nhân Đạo/HO" để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng … "Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử ; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh "HO" để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo" là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30/04/1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh "tù cải tạo/HO" phải được Chính Danh là : Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ « cải tạo » của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có "nợ máu" với nhân dân nên các anh phải đi "cải tạo », và khi tự gọi mình là "tù cải tạo" tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một "HO"- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người "tù cải tạo" - là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển, SJ, C/N Tháng Tư 2010

Tội Ác Của Hồ Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam

1949-1956 : Năm đợt Cài Cách Ruộng Đất : 500000 nạn nhân ;
1954 : Gần 1 Triệu người đã bỏ Tất Cả để vào Nam tìm Tự Do ;
1958 : Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận
 yêu sách của TC về Biển Đông và 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa ;
1968 : Tấn công Tết Mậu Thân. Hơn 14000 nạn nhân dân sự, trong số hơn 2000 người bị chôn sống ;
1974 : Với sự đồng loã của nhà cầm quyền Hà Nội, TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của VNCH ;
1975 : Cưỡng chiếm Miền Nam, 2 năm sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Binh Paris, 
Trại Tù « Cải Tạo », nửa triệu tù nhân khổ sai, hàng chục ngàn thiệt mạng ;
1975-1985 : Hơn 1 triệu 750 người trốn khỏi Việt Nam (3, 4 trăm ngàn tử nạn) ;
1979 : Chiến tranh giữa Việt Nam và TC, hàng chục ngàn dân Việt mạng vong ;
1999-2000 : Hai Hiệp Ước, ký lén lút, nhượng Đất Biển của Tổ Quốc cho TC 
(vùng biên giới và hầu như toàn bộ Biển Đông, với 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa) ;
Đến ngày hôm nay, vẫn chưa có Hiệp Ước hoặc bản đồ nào được công bố ... 

Tóm lại, kể từ 1945, « chiến tranh giải phóng » của HCM và đảng CSVN
Đã sát hại hơn 3 triệu (*) người Việt Nam
 (*) Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 : Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes Fils ?
Việt Nam, nguơi đã làm gì với đàn con  ?) 

Dẫn tới tình trạng hiện tại : 

- Mất hầu như toàn bộ Biển Đông, và một phần khu biên giới phía Bắc ;
- Đại đa số dân chúng sống nghèo khổ mặc dù đã 35 năm hoà bình thống nhứt ;
- Ngư phủ Việt Nam bị TC khủng bố trắng trợn, đàn áp thẳng tay, thậm chí sát hại 
trong khu vực đánh cá truyền thống tổ tiên, trước sự im lặng dửng dưng của nhà cầm quyền ;
- Đàn áp thô bạo người bất đồng chính kiến, tín đồ tôn giáo không « quốc doanh » ;
- Về tự do biểu lộ tư tưởng, năm 2009, « Phóng Viên Không Biên Giới » 
đã xếp Việt Nam vào hạng thứ 166 trong số 175 quốc gia trên thế giới ;
- Buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ để làm nô lệ tình dục ;
- Xuất cảng lao động rẻ tiền (thực chất là nô lệ) khắp thế giới ;
- Cho  TC (kẻ thù truyền kiếp) « thuê » nhiều vùng đất đai chiến lược của Tổ Quốc
 để khai thác bauxite (vô cùng ô nhiễm), với nhân công TC nhập cảnh tự do  ...  

- Cán bộ đảng CSVN trở thành triệu triệu phú USD, với 1 số không nhỏ là tỷ phú ;
Văn Hoá sa sút, Tàu hoá ; Xã Hội đồi truỵ, chạy theo vật chất bằng mọi giá ...
- Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo khổ nhất thế giới, vẫn van xin quốc tế trợ giúp ...

 * * * * *

Les Crimes De Ho Chi Minh & De Son Parti Communiste  

1949-1956  : Cinq vagues de Réforme Agraire – 500 000 victimes
1954 : Près d'un million de Nord Vietnamiens ont tout quitté pour La Liberté dans le Sud ;
1958  : Lettre Officielle de Pham Van Dông, sous la houlette de Hô Chi Minh, 
approuvant les revendications de la Chine sur la Mer de L'Est avec les Iles Paracel et Spratley  ;
1968  : Offensive du Têt – Plus de 14000 victimes civiles dont plus de 2000 enterrés vivants à Huê  ;
1974  : avec la complicité du gouvernement de HaNoi,
 la Chine envahit l'archipel Paracel de la République du Sud Viet Nam  ; 
1975  : Invasion du Sud VN 2 ans après le Traité de Paix de Paris  ;
 Camps de concentration  : 1/2 million de prisonniers, des dizaines de milliers de morts …
1975-1985  : Plus de 1,7 million ont réussi à fuir le VN (3 ou 4 cent mille ont péri)  ;
1979  : guerre entre 2 régimes communistes (Le VN et la Chine ) - des dizaines de milliers de victimes  ;
1999 et 2000  : traités, signés en secret, cédant du territoire national à la Chine, 
(des zones frontalières du Nord, la quasi-totalité de la Mer de l'Est avec les archipels Paracel, Spratley)  ;
A cette date, aucun traité n'est divulgué, aucune carte n'est publiée … 

Pour résumer, depuis 1945, la « guerre de libération » de HCM et de son PCV

a fait plus de 3 millions (*) de victimes parmi la population vietnamienne
(*) Pierre Darcourt, Edition Albatros Paris 1976  : VietNam Qu'As-Tu Fait De Tes Fils  ? 

Pour arriver à la situation actuelle  :

- Perte de la quasi-totalité de la Mer De L'Est et d'une partie de la zone frontalière  ;
- La grande majorité de la population vit dans la pauvreté malgré 35 ans de paix absolue  ;
- Des pêcheurs vietnamiens sont ouvertement terrorisés et même tués par l'armée chinoise, 
dans leurs zones de pêche ancestrales, sans aucune réaction de la part du VN  ;
- Répression brutale des dissidents et des religieux n'appartenant pas aux organisations d'Etat  ; 
(le VN est classé, en liberté d'expression, 166/175 par RSF en 2009)
- Traffic d'enfants, traffic de femmes pour l'esclavage sexuel ;
- Traffic de « main d'œuvre bon marché » (en réalité des esclaves) pour le monde entier  ;
- « Location » des zones hautement stratégiques du Territoire National à la Chine (notre ennemi ancestral)
qui exploite la bauxite (tragiquement polluante) avec sa propre main d'œuvre venue de Chine, librement … 

- Les cadres du PCV sont devenus des multi-millionnaires en USD ;
- Déchéance sociale, décadence culturelle … 
. Le ViêtNam est encore parmi les plus pauvres du monde, toujours mendiant l'assistance internationale …

 * * * * * 

Crimes Committed By Ho Chi Minh & The Vietnamese Communist Party 

1949-1956 : Five waves of agrarian reforms : 500000 victims ;
1954 : Almost 1 million people left Everything to Freedom in the South VietNam ;
1958 : Obeying Ho Chi Minh's decision, Pham Van Dong sent a letter officially approving 
the claims China made to the sea area in the East, including the islands Paracel and Spratley ;
1968 : Tet Offensive, more than 14000 civilians killed, and more than 2000 among them buried alive.
1974 : Acting in collusion with the Government of Hanoi, China invades
the archipelago Paracel belonging to the Republic of Viet Nam.
1975 : Invasion of South Viet Nam two years after signing the Peace Treaty of Paris ;
Concentration Camps, half a million prisoners, thousands and thousands died ;
1975-1985 : More than 1,7 million Vietnamese escaped out of their country 
(about 3 or 4 hundred thousand died in the sea)
1979 : War between 2 communist regimes (VN and China), thousands and thousands lost their lives ;
1999-2000 : Treaties, signed secretly, yielding national territories to China (the frontier regions in the North, 
the quasi totality of the sea in the East including the archipelagos Paracel and Spratley.
By then, not a treaty revealed, not a map published … 

To sum up, since 1945, "the war of liberation" carried out by Ho Chi Minh and the Communist Party
 has created 3 M (*) victims cut off from the whole population (Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 ; 
(*) Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes fils ? (Viet Nam, What Have You Done to Your Sons ?) 

Leading to the actual situation : 

- Loss of quasi totality of the sea region in the East and one part of the frontier region ;
- The majority of the people live in poverty despite 35 years of absolute peace ;
- Vietnamese fishermen are openly maltreated, avowedly terrorized, and even killed 
by Chinese forces in the traditional fishing regions, Viet Nam kept quiet, showing no reaction ;
- Brutal repression to the political dissidents and religious believers, not belonging to the state's organisations ;
- In its 2009 classification in regard to liberty of expression, RWF ranked VN 166 among 175 nations in the world.
- Children trade, women trade for sexual slavery.
- Trade 'labourer cheap price' (in reality selling slaves) all over the world.
- "Leasing" entire strategical zones of the fatherland to China (our perennial enemies ),
 which is  exploiting bauxite (very pollutant), with its own workers from the mainland, freely …

- The cadres in the Communist Party become multi-millionaires in USD ;
- VN is still among the poorest countries in the world, always begging for international aid …

Thử Tìm Đoàn Kết Với Cách Viết Tiếng Việt

http://datnuoctoi.net/index.php?option=com_content&view=article&id=391:vhtv13tiengviet&catid=63:tiengvietc&Itemid=59


Hiện nay có khoảng trên 3 triệu người Việt Hải Ngoại, sống rải rác trên toàn Thế Giới. Khó mà biết được con số chính xác. Có điều chắc chắn là số người Việt Hải Ngoại không ngừng gia tăng. Trước ngày 30/04/1975, chắc là con số người Việt trên toàn thế giới không quá 200 ngàn người (với tuyệt đại đa số số sống ở Pháp).


Thử tưởng tượng, một đứa trẻ Na Uy gốc Việt gặp cousin (anh chị em họ) người Đức gốc Việt. Làm sao chúng trò chuyện với nhau dễ dàng nếu chúng không biết tiếng Việt ? Thử tưởng tượng Ông Bà sống tại VN qua thăm cháu sinh trưởng tại Hoa Kỳ. Làm sao trò chuyện nếu cháu không hiểu và nói được tiếng Việt, dù chỉ bập bẹ ?


Có thể nói, tiếng Việt là Mẫu Số Chung quan trọng và hữu ích nhứt của tất cả người Việt trên Thế Giới. Người Việt chúng ta có bổn phận bảo tồn và phát huy gia tài vô cùng quý báu nầy.


Tiếng Việt ngày nay, sau hơn 35 năm từ ngày Quốc Hận 30/04/1975, đã có nhiều thay đổi, nhưng than ôi, trong chiều hướng xấu.

* * * * *

Cách phát âm tiếng Việt có khác nhau, tuỳ vùng, tuỳ địa phương. Người trong Nam thường không hiểu được trọn vẹn những gì người Bắc hoặc người Quảng Ngãi phát biểu và ngược lại. Và không như người Bắc, người Nam khó mà phát âm được đúng « dấu ngã » hoặc những chữ  có đuôi « g hoặc h» hay không « g hoặc h » (« quan trọng » vs (versus : đối với) « quang minh » ; « chín mùi » vs « chính trực »), có đuôi c hoặc t (« mức độ » vs « kẹo mứt »). Ngược lại người Bắc hay đọc và viết sai những chữ « ch » với « tr », chữ « s » với « x » ... Những khác biệt vừa kể trên đây có tính cách địa phương.

Còn cách viết bỏ dấu (Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng) thì sao ?

Với tư cách webmaster (sinh trưởng Sài Gòn và Đà Lạt, do đó chắc chắn có lỗi dấu « Hỏi Ngã » trong bài nầy) hàng ngày chọn lọc tin tức trên diễn đàn cũng như trên sách báo, tôi nhận thấy cách bỏ dấu có vẻ tuỳ hứng, vì có khi trong 1 bài, tác giả bỏ dấu khác nhau.

Ví dụ 2 chữ « hoàn toàn », nơi nầy viết « hòan toàn », nơi khác viết « hoàn tòan ». Như « quả lựu đạn » có người viết « qủa lựu đạn ». Như chữ « người » có khi thấy viết « ngừơi », thậm chí còn có khi tôi nhìn thấy dấu huyền nằm trên chữ « i » (ngươì). Hoặc những chữ như « bước ngọăc lịch sử », « suy thóai » ...

Không lẽ muốn bỏ dấu trên nguyên âm nào cũng được ? Ở tuổi già, phần lớn ta hay quên nhiều thứ. Nhưng ngược lại có nhiều chi tiết mà ta vẫn nhớ rõ như mới xảy ra. Ngày còn học Trung Học Yersin Đà Lạt, tôi có 1 ông thầy người Pháp tên Lévy dạy tiếng Việt. Ông ta nhắc đi nhắc lại là 
- câu văn phải có chấm phết đàng hoàng,
- tránh dùng nhiều lần 1 chữ trong 1 câu văn 
- và nhứt là những dấu thông thường phải được đặt đúng chỗ, trên nguyên âm chính của chữ. Ví dụ chữ «hoà bình». Rõ ràng là nguyên âm «a » quan trọng hơn nguyên âm «o ». Cũng như chữ « hoàn toàn ». Cả 2 đều cùng âm điệu « oa » với dấu « huyền » ... Vậy dấu «huyền» phải được đặt trên chữ «a » của cả 2 chữ «hoà bình» và «hoàn toàn».

Có lẽ vì ông thầy dạy Việt Văn là người Pháp, thuộc Do Thái Giáo (là điều rất hiếm thấy ở Việt Nam vào cuối thập niên 1950), nên tôi vẫn nhớ mãi những chi tiết trên đây. Và tôi nhận thấy những lời nhắc nhở đó rất thuần lý.

Có 1 thời gian ngắn, computer của tôi gặp trục trặc không giải thích được. Tự nhiên chương trình (program, logiciel) VPSkeys43 (lấy miễn phí từ www.vps.org) không dùng được. Dù đã làm đủ mọi cách, như tháo bỏ VPSkeys43 rồi gắn lại nhiều lần, hoặc làm System Recovery với nhiều thời điểm khác nhau. Đành gắn chương trình Unikey (cũng miễn phí và rất thịnh hành ở Việt Nam, trong khi người Việt Hải Ngoại thường dùng VPSkeys43). Do đó tôi mới thấy Unikey tự động bỏ dấu huyền trên nguyên âm « o » của chữ « hoà » (Unikey viết « hòa »), và đồng thời bỏ dấu huyền trên nguyên âm « a » của chữ « hoàn toàn ». Tại sao, với 2 chữ cùng 1 âm điệu , lại bỏ dấu trên 2 nguyên âm khác nhau ?

Có một người bạn hoàn toàn đồng ý với tôi về nguyên tắc phải « bỏ dấu » trên « nguyên âm chính » của chữ, nhưng lại giải thích : với chữ « hòa » nguyên âm chính là « o » nhưng khi thêm « n » nguyên âm chính trở thành « a ». Theo anh ta, do đó phải viết « hòa bình » và « hoàn toàn ». Tôi vẫn không hiểu tại sao, thêm phụ âm « n » nguyên âm chính lại thay đổi.

Một ngạc nhiên thich thú mà tôi đã vô tình băt gặp khi đọc tiểu thuyết « Thời Của Thánh Thần » của Nhà Văn Hoàng Minh Tường (vào Google gõ tên sách là có để đọc). Sách vừa được phát hành tháng 08/2008 đã bị thu hồi ngay. Tất cả những dấu thông thường đều được đặt đúng chỗ.

Tôi có lên lưới 1 bài của người bạn tên Thu Thuỷ. Bà ta gọi điện thoại nhắc là tên với « dấu hỏi » trên « u ». Trả lời câu hỏi « tại sao » thì bà ta giải thích là để dấu hỏi trên « u » của chữ « Thủy » cho cân xứng, thẩm mỹ, và từ xưa đến nay bà ta vẫn quen viết như vậy. Tôi nói « tuỳ bạn, nếu muốn, tôi sẽ sửa ngay sau khi bạn xem 2 hình dưới đây ».

DictVietFunCom

(Cái WS nầy http://dict.vietfun.com hình như đang thay đổi hình dáng, không còn tìm được trang nầy nữa).

Trong chương trình « OpenOffice.org3 », 1 chương trình miễn phí tương đương với Microsoft Office (phải mua với giá đắt), có 1 số thí dụ liên quan đến những chữ thường viết sai và được tự động điều chỉnh (vào Outils chọn Options / Auto Correction, chọn Tiếng Việt). Hầu hết những dấu đều được đặt đúng « nguyên âm chính » của chữ. Tôi chỉ nhìn thấy vài « chữ » mà tôi cho là « dấu không được đặt đúng chỗ » như « giàn hoả tiển » (thấy viết « giàn hỏa tiển ») và « thuỷ triều » (thấy viết « thủy triều ») : nhưng chữ cùng âm của chữ « thuỷ triều » là chữ « thiêu huỷ » lại được viết đúng (xem hình dưới đây).

Auto Correction Open Source

Xin xem thêm trang Bảng Tra Dấu Hỏi Ngã
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=38792&mpage=1

Tôi xin trich đoạn Th như sau :

Thuở -- lúc ấy thuở ấy, thuở nào, thuở nay, thuở trước, thuở xưa, đời thuở nào, từ thuở, ăn theo thuở ở theo thời, ngàn năm một thuở. 

Thuỷ
 -- nước thuỷ binh, thuỷ cầm, thuỷ chiến, thuỷ đạo, thuỷ điện thuỷ đĩnh, thuỷ hoả, thuỷ lôi, thuỷ lợi, thuỷ lưu, thuỷ mạc, thuỷ nạn, thuỷ nông, thuỷ ngân, thuỷ quân, thuỷ sản, thuỷ tạ, thuỷ tai, thuỷ thổ, thuỷ thủ, thuỷ thũng, thuỷ tiên, thuỷ tinh, thuỷ tộc, thuỷ triều, thuỷ vận, dẫn thuỷ, đường thuỷ, hồng thuỷ, phong thuỷ, sơn thuỷ, kiếng tráng thuỷ, ống thuỷ lấy thuỷ bịnh nhân ; -- đầu tiên khởi thuỷ, thuỷ tổ, thoạt kỳ thuỷ, thuỷ chung ; Tần Thuỷ Hoàng.

* * * * *

Bàn về cách bỏ những dấu kép [dấu hỏi (?), chấm phết (;), hai chấm (:), chấm thang (!), ngoặc kép (« »), vân vân (...), dấu « chấm hết » (./.).

Trước tiên, tôi xin bàn về dấu hiệu « ... ». BaChấm (...) tượng trưng cho của « vân vân = etc = so on ». Ví dụ ta viết « trong vườn có 5 cây cam, 8 cây bưởi vân vân », không có lý do nào khi thay thế  cụm từ « vân vân » bằng dấu hiệu « ... » ta lại viết dính liền nhau. Như vậy dấu hiệu BaChấm phải có khoảng cách (space) trước và sau, trừ trường hợp nằm trong 2 ngoặc đơn ().

Ngoài ra, có nhiều người viết « ,v.v... hoặc v.v...v.v hoặc nhiều hình thức khác ». Lỉnh kỉnh làm gì vô ích, dấu BaChấm đã quá đầy đủ ý nghĩa rồi.

Xin bàn tiếp về những dấu kép khác.

Như « dấu hỏi » (?) để dễ hiểu. Cũng trên báo chí hoặc diễn đàn, phần lớn tôi thấy có để khoảng trống trước những dấu kép. Nhưng cũng có không ít người viết dấu hỏi dính liền, không có khoảng trống. Ví dụ 1 câu trên đây : « Không lẽ muốn bỏ dấu trên chữ nào cũng được ? ». Theo tôi, viết với khoảng trống trước dấu kép trông sáng sủa hơn là viết « Không lẽ muốn bỏ dấu trên chữ nào cũng được? ». Dấu (?) được đặt cho nguyên câu, chứ không riêng cho chữ cuối cùng. Trái với 2 dấu (,) và (.), tới chữ nầy ta thêm ý khác hoặc chấm dứt câu.

Dấu « chấm thang » (!) cũng là trường hợp tương tự.

Như 2 đoạn văn sau đây, trích từ bài Phép Nói & Viết Hỏi Ngã của Hồ Tường, mới được đưa lên Diễn Đàn đầu tháng 2010/02 :

Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: chưa...chửa; miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng; thể...thế

Còn ba thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ: rồi...rỗi, chậm...chẫm; cữu...cậu; lỡ...lợ; cũng....cùng.

Trong tinh thần xây dựng, tôi xin phép thay đổi cách trình bày như sau (dù không hiểu công dụng của dấu BaChấm trong những câu trên) :

Như 3 thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ : chưa ... chửa ; miếng ... miểng ; cảnh ... kiếng ; chẳng ... chăng ; thể ... thế

Còn 3 thanh huyền, nặng, ngã, biến chuyển qua lại với nhau. Ví dụ : rồi ... rỗi, chậm ... chẫm ; cữu ... cậu ; lỡ ... lợ ; cũng ... cùng.

Rõ ràng là, nếu ta để 1 khoảng trống (espace, space) trước và sau những dấu kép, câu văn có vẻ thoáng hơn.

Tóm lại, tôi xin đề nghị « quy luật » : trước những dấu « chấm, phết » không có khoảng trống (space) và trước những dấu kép, có khoảng trống.

Dấu « mở ngoặc » là 1 ngoại lệ (không có space sau dấu « ngoặc mở » và không có space trước dấu « ngoặc đóng »).

Một tin mừng bất ngờ : Tôi vừa gắn MS Word 2003 (loại « gin ») và nhận thấy chương trình tự động để « space » khi gõ những dấu kép, như hình dưới đây.

Punctuation & Word 2003

TB : Tôi đã thử đi thử lại 3 lần. Office Word có điểm lạ : với bài nầy, điều ghi trên là đúng. Có thể lúc khác, lại không đúng. Cũng như với « ngoặc kép », khi thế nầy, lúc khác lại không như vậy.

 

Những lối đánh dấu sai thường thấy.

1 - Cũng như dấu % hoặc đơn vị km hoặc $ ... Khi ta nói « 15 phần trăm », hoặc « 15 cây số », rõ ràng « phần trăm » và « cây số » hoặc đơn vị « EUR, USD, AUD ... »,  không thể dính liền với con số 15. Không lý nào, khi viết tắt, ta lại viết dính liền nhau.

2 - Với lỗi lầm thứ nhì (chắc chắn đây là 1 lỗi lầm, cũng rất thường thấy trên sách báo Âu Mỹ) tôi xin trích dẫn nguyên văn 3 câu văn đã được đọc trong bài « Ngừng Hợp Đồng Vì Bài Bức Tường Bá Linh » của BBC ngày 27/08/2009 :

Ông Trần Công Khanh từ SGTT nói thêm: "Cơ quan báo chí ở Việt Nam là công cụ, vậy thì làm sao người lao động lại có quan điểm khác với chủ lao động?"

"Blog là quyền tự do, chúng tôi không can thiệp. Những bài anh viết trước đây, bên này không quan tâm."

Ta thấy gì :

- Sau câu đầu, không có « chấm » để kết thúc câu viết  hay sao ? Theo tôi phải có dấu chấm (.) hoặc dấu « chấm phết » (;) sau dấu « ngoặc kép đóng » ; nghĩa là phải viết « ... với chủ lao động ? ». Có dấu chấm cuối câu.

- Cuối câu thứ 2, dấu chấm lại nằm phía trước dấu « ngoặc kép đóng ». Theo tôi dấu chấm phải nằm phía sau để chấm dứt câu viết. Cũng như dấu « phết » (,) phải nằm phía ngoài dấu « ngoặc kép đóng » để phân chia những thành phần của câu văn, như thí dụ sau đây trích từ 1 bài của BBChttp://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/08/090829_viet_fishermen_held.shtml "Không phải lúc nào quan chức nghề cá, và an ninh biển vùng Tambelan cũng đi tuần và đuổi bắt tàu nước ngoài được vì khoảng cách quá xa, sóng lớn, trong khi tàu đánh bắt trộm thay đổi vị trí liên tục," viên chức người Indonesia nói.

3 - Ta thấy gì trong câu dưới đây , trích ở bài http://www.congdongnguoiviet.fr/DienDan/1002DaiNaTHh.htm (alinéa thứ 6 của phần 1)

Tối hậu thư thứ hai, Pháp cho biết nếu Việt Minh không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ phụ trách an ninh kể từ 20/12/1946.[3]

Dấu « chấm » dĩ nhiên phải nằm sau ghi chú số 3 và ghi chú đó liên quan đến toàn câu vừa được viết.

4 - Dấu BaChấm được tượng trưng với « ... » có nghĩa là « vân vân », nhưng có nhiều người vẫn ghi thêm những dấu linh tinh khác như « v.v.. » hoặc « ,v.v.. » ...

... & ... (hàng nầy tương đương với vân vân và vân vân)

* * * * *

Cách viết « Ngày Tháng Năm »

Trên Internet, và trong sách báo, ta thấy có nhiều lối viết khác nhau. Đại đa số viết dài dòng như « ngày 19 tháng 1 năm 1974 », có người thêm dấu phết giữa ngày tháng và năm, có người viết tháng 01 ... Một số lớn viết tắt, nhưng cách viết tắt cũng rất nhiều khác biệt. Ta có thể nhìn thấy ngày « 19-1-1979 » hoặc « 19-01-1979 » hoặc « 19 - 1 - 1979 » hoặc « 19 - 1, 1979 » hoặc « 19.1.1979 » hoặc « 19.01.1979 » hoặc « 01.19, 1979 » hoặc « 19/1/1979 » hoặc « 19/01/1979 » ... Đặc biệt người Việt bên Mỹ có cách viết riêng biệt như ngày « 01/19, 1979 ». Với ngày nấy ta còn hiểu được nhưng nếu gặp những ngày như « 01/03, 1979 » hoặc « 01.03, 1979 » thì chỉ còn nước đoán theo nội dung bài hoặc theo gốc gác người viết. Nghĩa là để viết về ngày, ta thấy có rất nhiều hình thức.

Theo tôi, ngoài lý do « câu » cho được nhiều chữ, cho bài dài ra, nên viết tắt, ngắn gọn và rõ ràng, chứ không lý do gì viết dài giòng.

Viết tắt với dấu « chấm » có bất lợi là nhiều dấu « chấm » trong 1 câu. Ngoài ra khi viết câu « ngày 19.1.2009, người Việt Hải Ngoại khắp Thế Giới ... », dấu chấm nằm trước dấu phết. Trông không đẹp, không thuần lý ... Nếu tránh được, tại sao không viết cách khác ?

Theo tôi, viết « 19-1-1979 » hoặc « 19-01-1979 » hay hơn là viết với dấu chấm. Nhưng cách viết « ngày » nầy có một nhược điểm là cụm số « 19-1-1979 » hoặc « 19-01-1979 » không là 1 thực thể đơn thuần (entité) như là viết với gạch chéo « 19/1/1979 » hoặc « 19/01/1979 ». Với gạch « ngang nhỏ » cụm số có thể nhảy hàng, trái với lối viết với gạch chéo.

Giữa « 19/1/1979 » và « 19/01/1979 » ta nên chọn « 19/01/1979 ». Như vậy ngày được xác định với 1 thực thể 8 số, tháng được xác định với 1 thực thể 6 số và năm, với 1 thực thể 4 số. Ngày và tháng được xác định với 2 số một cách thuần nhứt. Những giấy tờ hành chánh thường theo khuôn khổ nầy JJ/MM/AAAA (DD/MM/YYYY) hoặc AAAA/MM/JJ (YYYY/MM/DD).

Theo tôi, trong tương lai, cách viết « ngày tháng năm » sẽ là 2009/01/19. Cái lợi của cách viết nầy là ta có thể sắp xếp thứ tự (trier, sort) dễ dàng. Nhìn link trên đây

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/08/090829_viet_fishermen_held.shtml

ta thấy cách sắp xếp ngày 2009/09/09 lúc 0829 (giờ).

Cách ghi giờ

Nhân dịp cái link nầy, ta thử bàn về cách ghi giờ. Chẳng hạn, ta chỉ cần ghi « lúc 0829 » là quá rõ ràng. Cần gì phải ghi « AM » hoặc « sáng ». Nếu muốn rõ ràng hơn thì ghi thêm chữ « giờ ». Cũng như « lúc 1259 », cần gì phải ghi « 1259 AM » hoặc « 1259 sáng » (1 phút sau lại phải ghi « 1 PM »). Nếu là « lúc 1300 » thì ghi « lúc 1 giờ trưa » hay « lúc 1 giờ chiều » ? Ranh giới giữa « trưa » và « chiều » là lúc nào ? Thú thật, đến giờ nầy, tôi cũng không chắc chắn là ta phải viết 1259 AM hay 0059 PM.

Tóm lại, ghi giờ như trong ngành Hàng Không, Hàng Hải, với thực thể « 4 số » là chính xác và ngắn gọn nhứt.

Về cách ghi « ngày, giờ », xin xem cách ghi tự động của FREE (là 1 server bên Pháp)

Ghi Ngày Giờ Tự Động của FREE

Ta thấy gì :
- Cụm 8 số ghi năm (4 số), tháng (2 số) và ngày (2 số)
- Cụm 6 số ghi giờ, phút và giây (từng cặp 2 số).

Vài đề nghị

Nên viết hướng Bắc, hướng Nam … thay vì hướng bắc, hướng nam …
Nên bỏ dấu chấm với những chữ viết tắt, như Wash DC, HO, JF Kennedy … vì hoàn toàn không cần thiết và có hậu quả là đặt nhiều dấu chấm trong 1 câu hoặc dấu chấm trước dấu phết.
Nhiều lúc nên viết số thay vì viết chữ dài dòng vô ích …
… & …

Lối viết chữ Hoa (lettre capitale, block letter)

Tôi nhận thấy có một thiểu số ngưòi lạm dụng « chữ hoa ». Nhứt là khi đề tựa. Với mục đích là nhấn mạnh tầm quan trọng của tựa đề hoặc đoạn văn. Xin đơn cử thí dụ sau đây :

Qua TV, Nicolas Sarkozy
ĐỐI THOẠI VỚI DÂN

Ta thấy tựa có 2 phần, viết với dạng chữ Verdana 12 px. Thông thường, phần trên phải quan trọng hơn phần dưới. Phần dưới lại được viết bằng Block Letters, trông đồ sộ hơn phần trên. Tại sao không viết chữ thường ? Như dưới đây :

Qua TV, Nicolas Sarkozy
Đối Thoại Với Dân

Trông cân xứng hơn. Ta chỉ so sánh được những gì cùng thể loại mà thôi.

Tin Học có dùng thủ thuật « capitalize » để viết những « titles, titres » với chữ đầu viết Hoa (Đối Thoại Với Dân) để nhấn mạnh đó là 1 thực thể (mời xem « Bên Đời Hiu Quạnh », Tuỳ Bút của Khánh Ly) và thủ thuật « uppercase » với tất cả chữ đều được viết Hoa (ĐỐI THOẠI VỚI DÂN), cũng cùng mục đích như trên.

Bàn về những Chữ Ghép

Người Việt hay dùng những chữ ghép 2, ghép 3. Tên hoặc họ cũng thường là tên đôi, tên ghép.

Những nhóm chữ như

- Trần Văn Xoài, Nguyễn Văn Ổi, Đặng Vũ Mít, Tôn Thất Tình ... & ...
- Tổng Thống, Bác Sĩ, Giáo Sư, Linh Mục, Thượng Toạ, Tổng Giám Đốc, Tổng Thư Ký, Thiếu Tướng, Trung Sĩ, Binh Nhì ... & ...
- Việt NamLiên Hiệp Quốc, Ba Lan, Quốc Hội ... & ...
- ... & ...

Là những thực thể, phải được viết hoa đồng đều. Không nên viết Việt namTrần văn Xoài ... Tổng thống ... Liên hiệp quốc ... & ...

Nên tránh dùng từ ngữ VC

Dân Việt trong nước càng ngày càng dùng danh từ VC. Đó là điều khó tránh được. Nhưng ta là người Việt Hải Ngoại, hoàn toàn tự do. Ngoài ra, nếu chung là những người có ý chí tranh đấu chống chế độ ngu dân của VC, không lý do gì chúng ta dễ dãi chấp nhận những từ ngữ chói tai, dị hợm. Xin đọc bài Có Nên Dùng Ngôn Ngữ Của VC ?

Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến 1 khía cạnh khác của vấn đề.

Khi ta chấp nhận 1 danh xưng là ta đẵ đồng ý.

Có những từ ngữ mà Người Việt Hải Ngoại Không Nên Dùng. Xin nêu vài chữ

- Chính Quyền khi đề cập đến lũ VGCS. Ngày xưa, và ngày nay cũng vậy, chúng gọi ta là Nguỵ. Xin đề nghị dùng chữ «nhà cầm quyền» hoặc «nhà nước»;
- TP HCM. Nên giữ nguyên tên Sài Gòn, hoặc khi cần gọi là «thành Hồ» để tỏ sự khinh bỉ. Như St Petersbourg, thế nào Sài Gòn cũng sẽ hồi sinh.
- Trung Quốc. Bọn CS bán nước chấp nhận vai trò chư hầu, mặc kệ chúng. Ta nên gọi là TC hoặc China.

... & ...

Kết Luận

Nhiều người hô hào Người Việt Hải Ngoại nên đoàn kết để góp phần giải thể chế độ độc-tài-bán-nước hiện đang khống trị đồng bào ta. Ai cũng mong đoàn kết được để gây sức mạnh.

Nhưng theo tôi, khó khăn quá, quá khó khăn.

Tôi chỉ mong Người Việt Hải Ngoại đoàn kết được trong lối dùng tiếng Việt.

Những bài về Tiếng Việt

01 - Cái Chết Của 1 Ngôn Ngữ
02 - Nỗi Buồn Tiếng Việt
03 - Tiếng Việt Hôm Nay
04 - Tiếng Việt & Tiếng Vẹm
05 - Tiếng Việt Và Chữ Vẹm
06 - Đừng Gọi Nước Tàu Là Trung Quốc
07 - Xin Đừng « Điện » Cho Tôi Nhé !
08 - Thời Đại « Đồ Đểu »
09 - Dấu « Hỏi Ngã », « Từ Kép » & « Từ Ghép »
10 - Dấu « Hỏi Ngã » Trong Văn Chương Việt Nam
11 - Có Nên Dùng Ngôn Ngữ Của VC ?
12 - Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ
13 - Bảng Tra Dấu Hỏi Ngã