Chuyện hai mùa mưa
Mưa xứ  người
Trung tuần tháng 8 vừa qua, thế giới đều rúng động trước  hàng loạt các thiên tai làm hàng ngàn người thiệt mạng, trên hai triệu người  phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất và làm thiệt hại gần 3 tỉ đô la.  
Tại Cộng Hòa Tiệp, các trận mưa lũ đã làm sông Vlatava  dâng cao chưa từng thấy từ hơn một thế kỷ nay. Lưu lượng đã có lúc đạt đến  4500m3/giây nghĩa là lớn gấp 30 lần lưu lượng bình thường và sông dâng cao 10cm  mỗi 15 phút, nhận chìm thủ đô Praha, làm thiệt hại trầm trọng nền kinh tế nước  này.
Tại Áo, các trận mưa và lụt đã ngập tràn thủ đô  
Tại Ðức, hầu như cả miền 
Tuy nhiên tại Nam Á và đặc biệt là tại Trung Quốc, tình  hình mới được coi là nghiêm trọng nhất. Dương Tử giang đã dâng cao tại hồ Ðộng  Ðình và trong địa phận tỉnh Hồ 
Riêng tại Việt 
Qua các biến cố này, con người đang đặt cho mình những  câu hỏi về nguyên nhân của các trận thiên tai này và tìm cách dự đoán hoặc giảm  thiểu tầm tác hại của chúng. Nói đúng ra, sự quan tâm này đã có từ lâu nhưng sự  bùng nổ dân số đi đôi với tình trạng công nghiệp hóa đã khiến mọi người thực sự  lo lắng và bắt đầu nói về tương lai của trái đất. Hai vấn đề chính hay nói đúng  ra là hai tác hại chính là tầng ozone, sự nóng dần lên của trái đất và hiệu ứng  lồng kính.
Ozone (công thức hóa học là O3), là một loại khí thiên  nhiên hiện hữu ở hạ tầng khí quyển và ở cao độ 35-45km. Khí này có tác dụng ngăn  cản các tia cực tím của mặt trời gây ung thư da. Vào năm 1994, các nhà khoa học  khám phá ra rằng tầng ozone này đang bị "lủng lỗ" ở một vài nơi, nhất là ở Nam  cực, và tác nhân chính là các khí chlorofluorocarbures (CFC) dùng trong các ống  xịt. May mắn làm sao, con người đã tìm ra một chất thay thế khí CFC và cứu thoát  tầng ozone.
Riêng về tình trạng nóng dần lên của trái đất đến từ sự  phát triển tăng tốc của kỹ nghệ. Khí thải từ các nhà máy và các sinh hoạt của  con người bay lên không và tạo thành một tấm màn phản chiếu các tia hồng ngoại  đến từ mặt đất và nó có tác dụng "ủ" kín trái đất vì thế người ta thường nói  tình trạng nóng dần này đi đôi với hiệu ứng lồng kính. Vào thế kỷ trước, nhiệt  độ đã tăng lên 0,5 độ, và người ta dự tính với đà tăng trưởng dân số và công  nghiệp như hiện nay, nhiệt độ sẽ tăng lên 3 độ trong thế kỷ sắp đến.  
Mưa xứ  ta
Xét riêng trường hợp Việt 
Rừng từ ngàn xưa vẫn được coi như lá phổi của loài người,  nó có tác dụng hút khí carbonic CO2 và thải ra dưỡng khí. Tuy nhiên, rừng còn  giữ một vai trò rất quan trọng trong chu trình điều hòa lượng nước trên trái  đất. Khi mưa xuống, một phần lớn nước lập tức bay hơi (70%), phần còn lại thấm  xuống đất hoặc chảy trên mặt đất thành sông, suối. Phần thấm xuống đất rất quan  trọng vì nó tiếp tế cho các mạch nước ngầm và nhất là nuôi dưỡng cây cối. Nếu  không có rừng, lượng nước thấm xuống đất ít đi và ngược lại lượng nước sông suối  dâng cao. Người ta thường nói rừng giữ nước là vì thế. Ở Việt 
Ngày 30/8/2002, khi lũ lụt đang hoành hành tại Âu châu,  Trung Quốc, tại Tây Bắc và Tây nguyên Việt Nam, báo Tuổi Trẻ đã ước tính là hiện  nay độ phủ rừng ở Việt Nam vào khoảng 28% (8 triệu hecta) so với 44% vào năm  1944. Từ hơn chục năm nay, cả nước đã báo động về tình trạng phá rừng không  thương tiếc, nhưng cho đến ngày hôm nay, sau nhiều chiến dịch, sau nhiều nghị  định, rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá từ Bắc chí Nam. Diện tích rừng trồng luôn  luôn nhỏ hơn rừng bị mất. Tình trạng lũ lụt sẽ vẫn còn tiếp diễn chưa kể đến tai  họa về môi sinh khác (diệt chủng các loài động vật, lở đất,...) ảnh hưởng trực  tiếp đến sức khỏe người dân.
* * *
Tuy nhiên, khi nhìn thấy thành phố Salzbourg ở Áo bị dòng  
Ðúng là con người hoàn toàn bất lực trước các "cơn thịnh  nộ của thiên nhiên" như lụt lội, động đất, núi lửa, bão tuyết... Gần đây nhất  chúng ta đã chứng kiến một nước giàu mạnh như Hoa Kỳ cũng bó tay trước những  trận cháy rừng ở tiểu bang California hoặc một nước rất quan tâm đến thiên tai  như Pháp cũng "xấc bấc xang bang" trước những giòng bùn (Nimes, 1989), trong đó  "xe hơi bị lật như bát úp", đó là chưa kể đến những thiên tai như trận lụt lịch  sử năm 1954 tại Trung Quốc khi dòng Dương Tử Giang nhận chìm 350.000 nhân mạng  hoặc trận động đất kinh thiên động địa tại Kobe, Nhật Bản đã làm "giãn" nhịp  chính của cầu Ashahi Kaikyo ra thêm 1 thước và làm hàng trăm ngàn người sống  trong cảnh màn trời chiếu đất. 
Trước thiên nhiên, quả thực con người quá nhỏ bé và hầu  như các biện pháp phòng chống, ngăn ngừa đều vô nghĩa lý. Tuy nhiên xét cho  cùng, ngoài những thiên tai ngoài sức tưởng tượng như sao chổi Schumacher-Levy  "bang" vào trái đất hay núi lửa Pinnatubo phun khói suốt mấy tháng trời chứ ngày  hôm nay các tiến bộ khoa học cũng đã tiên đoán hoặc ít ra cũng giới hạn phần lớn  các vụ thiên tai này. Trong các trận lụt vừa qua, nếu không có các phương tiện  cứu hộ chắc chắn số thiệt hại về người và của sẽ còn tăng lên gấp bội. Tại  Praha, thủ đô Tiệp trận lụt vừa qua chỉ có khoảng 10 người chết trong khi cường  độ xem ra còn lớn hơn trận lụt lịch sử năm 1890. Tại Salzbourg (Áo) và  
Tiến bộ khoa học và các biện pháp phòng chống dài cũng  như ngắn hạn chắc chắn đã giúp con người tiên đoán và giảm thiểu phần nào các  tai họa. Riêng ở Việt 
Trước tiên là vấn đề phá rừng. Phải nói 10 năm trở lại  đây không ngày nào báo chí lại không ta thán về vấn nạn này, nhà nước cũng ra  nhiều chính sách, nghị định khuyến khích và hỗ trợ nông dân trồng rừng cũng như  có những biện pháp cứng rắn đối với lâm tặc, nhưng vẫn không có hiệu quả. Các  phóng sự đều cho thấy các khu rừng nguyên sinh, nơi có nhiều cây to và quý tiếp  tục bị tàn sát và dấu vết còn lại không khác gì sau một trận bom. Những bài báo  mang tựa rất thê lương như: Ðà Lạt: Lời cầu khẩn của rừng, Hà Tĩnh: coi chừng  không còn rừng, Phú Yên: 10 năm mất nửa diện tích rừng,  Gia Lai: Kiểm lâm thua lâm tặc... đã nói  lên sự bất lực của chính quyền đối với tình trạng phá rừng tràn lan trên khắp  đất nước. Dĩ nhiên không phải tái lập lại tỷ lệ 40% diện tích rừng là chúng ta  thoát cảnh hạn hán hoặc ngập lụt, nhưng đối phó với thiên nhiên, chúng ta chỉ  mong giới hạn được phần nào thiệt hại có thể xảy  ra.
Vào tháng 4/2002, có xảy ra một trận cháy rừng lớn tại U  Minh Thượng và U Minh Hạ. 4000 hecta rừng bị đốt cháy. Nếu so sánh với trận cháy  rừng ở Nam Dương năm 2000 thì thiệt hại của ta rất nhỏ nhưng chính vì cái "nhỏ"  đó mới thấy sự yếu kém của chính quyền. Trong khi đi thị sát, ông Phan Văn Khải  có phán:"Trong chiến tranh rừng có cháy, hàng năm đến mùa khô rừng vẫn cháy  nhưng vẫn chữa được, tại sao năm nay lại cháy lan rộng?". Câu trả lời lại là sự  cẩu thả của con người. Chặt cây, bắt cá, ăn ong, phá lấp các kênh đào. Ðến lúc  không còn kiểm soát được đám cháy mới động viên dân chúng nhưng lại hoàn toàn  thiếu các dụng cụ chữa cháy. Bà con chỉ dùng sô và cành cây để chống trả với  thần hỏa. Một lãnh đạo ngành canh nông nhìn rồi than:"điệu này chỉ còn cách  trông vào... Trời". Sợ quá hóa sảng, người cộng sản thuần thành phải cầu các bác  Mác, bác Lê chứ sao lại trông vào đấng thiêng liêng. Nhưng kể cũng linh, sau đó  Trời có đổ mưa thật. Hú vía.
Trận cháy rừng U Minh vừa qua lại tỏ ra một thiếu sót của  chính quyền trong việc kiểm soát sự khai thác các khu rừng tràm ven biển - và đó  cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các vụ lụt trong đồng bằng sông Cửu  Long gần đây. Theo một bài đăng trên báo Sàigòn Giải Phóng, trong khoảng 10 năm  trở lại đây, việc phá rừng tràm, rừng đước và phá rừng để nuôi tôm ven biển đã  hủy hoại một lượng lớn diện tích rừng ngập mặn làm ảnh hưởng đến sinh thái trong  vùng. Mặt khác, sự canh tác thiếu kiểm soát làm tắc nghẽn của các con kênh, đảo  lộn quy hoạch tự nhiên của dòng chảy khiến cho đỉnh lũ cứ mỗi năm một cao, thời  gian ngập lụt kéo dài và diện tích ngập lụt càng lớn, gây thiệt hại nhân mạng và  tài sản cho nông dân.
Một khía cạnh kỹ thuật khác cũng ảnh hưởng đến tình trạng  lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long là việc khai thác các đập thủy điện trên con  sông này cũng như các công trình thoát lũ được nhà nước Việt 
Cũng theo một nghiên cứu khác, thì việc khai thác các đập  thủy điện trên con sông này cũng tác hại không kém. Sông Cửu Long dài 4200km,  chảy qua 7 nước trước khi đổ ra biển Ðông và bồi đắp cho đồng bằng 300 triệu tấn  phù sa mỗi năm. Gần đây Thái Lan, Lào và nhất là Trung Quốc đã cho xây nhiều đập  thủy điện trên thượng nguồn để phục vụ nhu cầu năng lượng và cũng để điều hòa  lưu lượng. Tuy nhiên việc này đã ngăn cản phù sa bồi đắp khu cửa biển khiến nước  mặn có điều kiện xâm thực, làm biến mất các khu rừng ngập mặn ven biển, đồng  thời việc mất phù sa cũng làm quá trình sụt lún trong các vùng trũng của đồng  bằng gia tăng, và hậu quả tức khắc là ngập lụt cho dù mực nước chưa cao.  
Theo các Công Ước Quốc Tế về sông, thì 7 nước mà sông  Mekong chảy qua đều là những "sở hữu chủ" của dòng sông này. Chính vì thế mà hai  cây cầu Mỹ Thuận và Cần Thơ phải có độ cao đủ để các tàu lớn đi qua để ra biển,  nhưng ngược lại các nước trên thượng nguồn cũng phải tôn trọng không để thiệt  hại cho nước ta. Ðiều này chính quyền Việt 
việc mở cái rô-bi-nê này giữa mùa mưa thì cả cái đồng  bằng Cửu Long sẽ thành tôm cá hết.
Nhà nước Việt 
***
Tuyên ngôn sông Mekong năm 1999 đã lên tiếng cảnh giác  các nước 
Phan Kiến  Quốc
10/2002