Giao
Chỉ
(Sứ
thần Bùi Viện công tác 1873)
Đấu
tranh chính trị.
Trong
công cuộc đấu tranh cho dân sinh tại Hoa Kỳ và nhân
quyền cho Việt Nam thì vận động hành lang là phương
thức quan trọng và hữu hiệu nhất. Ưu tiên số 1 vẫn
là vận động bầu cử. Con đường số 2 là tìm cách đạo
đạt dân ý lên hành pháp và lập pháp. Con đường này
đi trên hành lang của các văn phòng.
Mưu
đồ hạnh phúc cho chính chúng ta, cho cộng đồng của
chúng ta và quê hương bỏ lại là nghĩa vụ rất rõ rệt.
Hãy làm người công dân Mỹ tử tế, nhiên hậu sẽ giúp
cho cộng đồng vững mạnh và đồng hương ở quê nhà
sớm có tự do dân chủ.
Đầu
tháng 3 năm nay 2012 người Việt tử tế tại Mỹ đã làm
được một màn ngoạn mục. Hết sức ngoạn mục. Cùng
nhau tham dự trực tiếp vào công việc vận động hành
lang. 200 người đưa kiến nghị vào Bạch cung. 1000 người
hỗ trợ bên ngoài. 500 người gặp các đại biểu tại
quốc hội. Ở các nơi xa có 150 ngàn người đồng thuận
ghi danh. We, the people. Chúng tôi là công dân. Thành quả vĩ
đại. Thành quả đầu tiên. Bất kể vị tổng thống có
xuất hiện hay không, bất kể nghị trình lẩm cẩm trục
trặc ra sao. Vạn sự khởi đầu nan. Đối với tôi là
rất OK. Không thắng, không bại, không hòa. Rất OK.
Trong
cuốn nhật ký sử kiện tại Viện Bảo tàng Việt Nam
chúng tôi sẽ viết như sau.
Công
cuộc vận động hành lang cho nhân quyền tại Việt Nam đã
thành tựu. Lần đầu tiên người Việt tại Mỹ đưa
kiến nghị vào Bạch cung. 200 người tham dự. 3 người
trình bày vấn đề, 4 viên chức Hoa kỳ ghi nhận. Phối
hợp chương trình bên trong cũng là một cô gái gốc Việt.
1000 người hỗ trợ bên ngoài. Hôm đó là ngày thứ hai,
5 tháng 3 năm 2012
Ngày
thứ tư 7 tháng 3-2012 có 500 người vào quốc hội vận
động với 50 thành viên lập pháp Hoa Kỳ. Mục tiêu căn
bản: Nhân quyền cho Việt Nam.
Những
hàng chữ đơn giản như trên chính là lịch sử. Sẽ
không có những lời huênh hoang khoe thắng lợi. Sẽ không
có những lời phàn nàn về sự sắp xếp lủng củng. Sẽ
không có tên tuổi của phe phái. Sẽ không có những thở
than bất mãn. Cũng không ghi lại những lời chống đối.
Đó
đơn thuần là tin tức lịch sử.
Cuộc
vận động đầu tiên.
Đi
vào chi tiết một chút, phải kể công đầu là anh Trúc
Hồ phát động. Rồi đến anh Nguyễn đình Thắng tiếp
tay. Mở đầu sự kết hợp hết sức tốt đẹp và hữu
hiệu. Phương tiện truyền thông mạnh mẽ. Đề tài rõ
ràng là một mẫu số chung để mọi người cùng hưởng
ứng. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Đủ cả. Bà con
ta được hướng dẫn ghi danh. Bà con ta được tổ chức
đưa về thủ đô. Và cuối cùng kết quả tốt đẹp.
Không phải tốt đẹp vì đã có ngay kết quả nhãn tiền.
Kết quả là sự hưởng ứng và sự họp mặt. Còn chuyện
thành quả cuối cùng sẽ còn rất lâu hay bất khả. Nhưng
đồng lòng và cùng gặp nhau. Đó là sự thành công. Lịch
sử không cần ghi những điều ong tiếng ve, những lời
xuyên tạc hay những giây phút trách móc than thở.
Bởi
vì hơn trăm năm trước đã có cuộc vận động hành lang
của Việt Nam bất thành, cũng tại DC. Ai là người trách
móc và than thở cho Bùi Viện.Thực vậy cách đây 139 năm,
vào năm 1873 tiền nhân của chúng ta là ngài Bùi Viện,
lúc đó bác chỉ có 34 tuổi đã xuất dương qua Mỹ tìm
cách vào gặp tổng thống Hoa Kỳ thực hiện cuộc vận
động hành lang lịch sử lần đầu tiên cho Việt Nam.
Xin
nhắc lại một chút tiểu sử của thiên tài nước ta qua
tác phẩm của Phan trần Chúc.
Sử
ghi rằng ông Bùi Viện quê Tiền Hải, đất Thái Bình
sinh năm 1839, đỗ cử nhân 1868 và làm phụ tá cho bộ
trưởng Lê Tuấn. Dù là bộ trưởng bộ Lễ nhưng ông Lê
Tuấn được cử ra Bắc dẹp loạn. Bùi Viện tuy là quan
văn nhưng lại có óc tổ chức khoa học nên giúp việc
dẹp giặc thành công.
Niềm
đau cửa Thuận.
Đó
là ngày đầu năm 1873 vua Tự Đức thăm cửa biển Thuận
An. Hết sức tình cờ vua quan nhà Nguyễn gặp lúc đoàn
thuyền của Đại Nam từ Bắc trở về. Tám thương thuyền
chở tiền thuế, hàng hóa và binh sĩ vừa đến gần cửa
Thuận. Hai chiếc thuyền của giặc Tàu Ô đuổi theo ăn
hàng. Cả đoàn thuyền của Đại Nam không chống cự lại
phải bỏ chạy. Hai chiếc sau cùng bị cướp bắn phá.
Súng của Tàu Ô mạnh hơn. Súng của quân ta vô dụng.
Quân Tàu là hải tặc thiện chiến trên biển cả.
Quân ta không được huấn luyện nên hoàn toàn thất bại.
Trận
đánh đau thương xẩy ra trước mắt vua quan xứ Huế. Bùi
Viện làm thơ trào phúng nhắc lại thảm kịch. Vua Tự
Đức thay vì quở trách đã giao cho Bùi Viện tổ chức
lại toàn bộ hải quân.
Trong
thời gian ngắn Bùi Viện xây dựng lại đoàn ngũ chỉ
huy và thủy thủ. Tổ chức thành các đơn vị lớn nhỏ.
Lập doanh trại và đồn lũy ven biển. Đóng các chiếc
thuyền. Luyện tập binh sĩ. Tuyển mộ ngay các tên cướp
biển để làm thành lực lượng phòng vệ.
Lần
đầu tiên nước Đại Nam có được một hệ thống hải
quân khả dĩ có nề nếp. Các thương thuyền ra khơi buôn
bán bắt đầu trông cậy vào chiến thuyền của ta bảo
vệ. Ngày nay nếu phải tìm lại cho đúng vị thánh tổ
của hải quân Việt Nam, người đó phải là “Đô đốc”
Bùi Viện. Cần phải trả lại danh hiệu Trần Hưng Đạo
cho bộ tổng tham mưu. Đức Thánh Trần xứng đáng là
Thánh tổ của toàn thể quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tên
của ông đã được đặt thành trại Trần Hưng Đạo,
bản doanh của bộ Tổng tham mưu.
Xuất
dương cầu viện.
Tuy
nhiên từ đó Việt Nam và nhất là ông Bùi Viện tìm hiểu
biết rõ Hoa kỳ là nước trẻ trung và hùng mạnh tại
Bắc Mỹ. Mùa Thu 1873, ông mới 34 tuổi, nhận lệnh vua Tự
Đức qua Mỹ để vận động hành lang tìm đường cứu
nước khỏi nạn xâm lấn của Pháp. Từ cửa Thuận An,
chỉ có một mình, ông ra Bắc rồi từ đó đáp thương
thuyền đi Hương Cảng.
Rất
may mắn Bùi Viện gặp được sứ thần của Hoa kỳ tại
đất Cảng thơm là người Mỹ lai Tàu. Cả 2 người đều
làm thơ chữ Hán, tưởng như gặp quý nhân.
Sứ
thần Hoa kỳ thấy nhà ngoại giao Việt Nam trẻ tuổi, yêu
nước, quyết tâm nhưng hoàn toàn lạc lõng với thế
giới, ông bèn hết lòng giúp đỡ.
Từ
đó Bùi Viện qua Nhật, rồi từ Nhật qua Mỹ. Ông đến
thủ đô Hoa kỳ vào năm 1874, lúc đó là nhiệm kỳ thứ
hai của tổng thống Ulysses Grant.
Vận
động làm sao?
Lịch
sử không ghi lại là vị tiền nhân xuất sắc của chúng
ta đã ở đâu trên vùng thủ đô Hoa thịnh đốn. Đã gặp
ai. Anh ngữ của ông ra sao. Ông học ESL ở đâu. Housing ra
sao? Xe cộ đi lại có ai giúp đỡ. Ông mặc quần áo và
ăn uống như thế nào. Thời kỳ đó chưa có welfare, chẳng
có Food stamp.
Ôi,
tiền nhân của chúng ta, tuổi trẻ, cô đơn nhưng lòng
yêu nước tuyệt vời. Ông đã phải tìm cách gặp các
dân biểu quốc hội, Ông phải dựa theo tin tức của bạn
vàng là sứ thần Hoa kỳ tại Hồng Kông để tìm đường
liên lạc vào Bạch cung. Không có miếng giấy trong túi,
không có lá cờ vàng trong tay. Mất gần một năm trời.
Sau cùng ông đã tìm được vào gặp tổng thống Hoa kỳ.
Chúng
ta bây giờ ngồi đây 139 năm sau, xin hãy tưởng tượng
những khó khăn ghê gớm chừng nào để nhà ngoại giao
khăn đóng áo dài của Việt Nam giài bầy với tổng thống
Mỹ xin viện trợ kinh tế, quân sự cho Việt Nam đánh
đuổi quân Pháp.
Dù
tổng thống Hoa kỳ đồng ý nhưng vẫn rất quản ngại,
ông đại sứ lưu động của Việt Nam xem ra chỉ có một
mình. Quốc thư ủy nhiệm cũng không có. Đành phải ghi
nhận để chuyến sau trở lại có thể chính thức trình
ủy nhiệm thư.
Đành
vậy thôi. Sứ thần Bùi Viện phải trở về. Chuyến về
ông gặp lại cố nhân là nhà ngoại giao Mỹ lai Tàu tại
Nhật Bản. Khi về nước, Bùi Viện tường trình chuyến
đi nhưng triều đình còn e ngại. Tuy nhiên năm 1875 ông
lại sang Mỹ lần thứ hai với quốc thư. Tiếc thay, chính
sự Hoa Kỳ thay đổi. Pháp-Mỹ đã ký thỏa ước. Nước
Đại Nam xa xôi không còn nằm trong viễn kiến của Hoa
Kỳ. Sứ thần Bùi Viện thất vọng quay về.
Với
sở học từ Hoa Kỳ, Bùi Viện tái tổ chức hải quân và
mở rộng hoạt động thương mại với ngoại quốc và
trong nước. Chức vụ sau cùng của ông là thượng tướng
tư lệnh hải quân đồng thời coi cả bộ tài chánh và
thương mại. Binh đội hải quân của ông đã giữ yên
hảỉ phận làm cho bọn Tầu Ô phải quay về cướp phá
vùng Hải Nam.
Sự
nghiệp đang hiển hách thành công, Bùi Viện mất năm
1878, hưởng dương chỉ có 40 năm.
Luận
cổ suy kim
Chúng
ta có dịp ngàn năm một thuở, vận động được hai ngày
tại Bạch Cung và tòa nhà Quốc Hội. Hai nơi tiêu biểu
cho hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ. Thực hiện một cuộc
thực tập đấu tranh chính trị tốt đẹp. Ngoạn mục
thực sự là vận động thành công, nhưng tất cả chỉ
mới là bước đầu. Kể từ khi mất nước 1975, cuộc
vận động hành lang sau 36 năm mới có vẻ mở đầu ngoạn
mục trên con đường còn dài. Nhưng lần này người Việt
tại hải ngoại không cô đơn như tiền nhân Bùi Viện
139 năm về trước. Chúng ta thành công là nhờ biết phối
hợp và đến với nhau. Không có lý do gì mà chê trách
phàn nàn. Thi sĩ Hà Thượng Nhân, sau những năm ngục tù,
nay đã ra đi và để lại một câu thơ đáng giá.
Những
mái đầu cất cao, không một lời than thở.
Xin
nhắc lại.
Những
mái đầu cất cao, không một lời than thở.
Nghĩ
lại mà coi, ngày xưa ông Bùi Viện chỉ có một mình. Mặc
áo the thâm đất Thái Bình ông đã vào gặp tổng thống
Hoa kỳ hai lần. Vốn Anh ngữ của ông không thể bằng
nhạc sĩ Trúc Hồ và chắc thua xa tiến sĩ Nguyễn đình
Thắng.
Ông
chính là mái đầu cô đơn, không một lời than thở.
Ngài
Bùi Viện ơi. Tôi nghĩ vừa khâm phục, vừa thương ngài
hết sức.
©
Giao Chỉ, San Jose
©
Đàn Chim Việt