Cuộc
bầu cử bổ sung ở Miến Điện đã kết thúc với chiến
thắng vang dội của phe đối lập do bà Aung San Suu Kyi
lãnh đạo: Họ chiếm được 43 trên tổng số 45 ghế
được bầu.
Dĩ nhiên, chiến thắng ấy, dù vang dội đến
mấy, vẫn không thay đổi được bàn cờ chính trị ở
Miến Điện. Lý do là Quốc Hội Miến Điện có đến 664
ghế. 43 trên 45 thì lớn. Cực lớn. Nhưng 43 trên 664 thì
lại nhỏ. Quá nhỏ. Họ vẫn là thiểu số. Chỉ chiếm
có bảy phần trăm. Hơn 90% số ghế còn lại trong Quốc
Hội vẫn nằm trong tay giới quân phiệt vốn nắm vai trò
thống trị độc tôn tại Miến Điện từ hơn 20 năm
nay.
Với một thiểu số ít ỏi như vậy, bà Suu Kyi,
trong cương vị mới, ít – nếu không muốn nói là không
– có cơ hội để mang lại bất cứ sự
thay đổi quan trọng
nào. Bà đặt ra ba mục tiêu lớn cho nhiệm kỳ của mình:
một, thiết lập một nền pháp trị (rule of law); hai, viết
lại hiến pháp; và ba, hoà giải với tất cả các dân
tộc thiểu số. Không mấy người tin là bà có thể đạt
được ba mục tiêu ấy. Ai cũng biết không có bất cứ
một điều luật nào đi ngược lại chính phủ có thể
được thông qua trong một hoàn cảnh như thế. Không có
một cải cách nào có tầm vóc lớn lao có thể được
thực hiện khi Quốc Hội vẫn nằm trong tay các lực lượng
bảo thủ và độc tài như thế.
Suu
Kyi biết tất cả những điều đó. Nhưng bà vẫn quyết
định ra tranh cử. Có hai lý do chính: Thứ nhất, bà muốn
chứng tỏ thiện chí hợp tác với Thein Sein, tân Tổng
thống Miến Điện, trong nỗ lực dân chủ hóa chế độ
và giải tỏa vòng vây kinh tế cũng như chính trị của
thế giới bên ngoài để nâng cao đời sống của 60 triệu
dân, những kẻ đã chịu đựng quá nhiều đau khổ trong
suốt mấy thập niên vừa qua. Thứ hai, bà cũng muốn sử
dụng diễn đàn Quốc Hội để cất lên những tiếng nói
vừa phản ánh được nguyện vọng của dân chúng vừa
nhắm đến những người mà bà muốn họ nghe nhất: thế
giới bên ngoài.
Bởi
vậy, ngay cả khi, ở cương vị mới, Suu Kyi không làm
được gì nhiều, bà vẫn hiện diện như một biểu
tượng. Trước hết là biểu tượng của khát vọng và ý
chí đấu tranh cho tự do và dân chủ, bất chấp mọi đe
dọa và nguy hiểm, kể cả những đe dọa và nguy hiểm
đối với sinh mạng của chính mình. Ở góc độ này, hầu
như không có ai trên thế giới hiện nay có thể sánh được
với bà ở cả sự hy sinh lẫn mức độ cao cả của sự
hy sinh. Một số người so sánh bà với Nelson Mandela của
Nam Phi mấy chục năm trước: cũng đầy lý tưởng và
cũng vì lý tưởng mà chịu đựng mọi khổ nạn đằng
đẵng từ năm này qua năm khác, thậm chí, từ thập niên
này sang thập niên khác. Thứ hai là biểu tượng của
tinh thần hòa giải: với bà, chấp nhận ra tranh cử cũng
có nghĩa là chấp nhận đối thoại với kẻ thù, những
kẻ đã cướp đoạt chiến thắng của bà trong cuộc bầu
cử năm 1990 và sau đó, liên tục tìm cách hãm hại bà,
từ việc bắt bà bỏ tù đến việc câu lưu bà tại gia
cũng như một số âm mưu ám sát bà nữa. Bà có thù họ
không? Chắc chắn là có. Nhưng khi có chút hy vọng thay
đổi, bà vẫn nhận lời để đẩy mạnh tiến trình thay
đổi ấy cho nhanh hơn. Và đúng hướng hơn.
Khi
được một phóng viên hỏi có phải đó là một dấu
hiệu thỏa hiệp với bạo quyền hay không, bà
Suu Kyi
đáp: “Đúng, nếu bạn nói về việc cho và nhận; và
Không, nếu bạn muốn nói về sự thỏa hiệp trong bảng
giá trị của tôi.” (If you are talking give and take: yes,”
she said. “If you talk of compromising my values: no!) Có nghĩa
là bà sẵn sàng chấp nhận hy sinh về chiến thuật trong
khi vẫn bảo vệ các niềm tin và nguyên tắc về tự do
và dân chủ của mình.
Đó
chính là một trong những thử thách lớn nhất mà Suu Kyi
sẽ phải đương đầu trong thời gian tới: bảo đảm sự
cân bằng giữa tính thực dụng và tính lý tưởng. Không
ai có thể đoán chắc là bà sẽ thành công hay thất bại.
Không khí chính trị ở Miến Điện vốn thất thường và
cho đến nay, hầu như vượt ra ngoài dự đoán của giới
quan sát và bình luận trên thế giới. Chúng ta chỉ còn
một lựa chọn duy nhất: chờ đợi.
Có
điều, cho đến giờ phút này, tính chất biểu tượng
của Suu Kyi vẫn còn nguyên vẹn. Con người lý tưởng ở
bà càng đẹp đẽ hơn trong thời gian trước và sau cuộc
bầu cử bổ sung ngày 1 tháng 4 vừa qua. Trong các chi tiết
được tường thuật trên các phương tiện truyền thông
thế giới, tôi tâm đắc với hai chi tiết:
Thứ
nhất, trong cuộc phỏng vấn vào ngày Thứ Sáu 30/3, khi
được hỏi bà muốn được nhớ như thế nào, bà đáp:
“Tôi muốn mọi người nhớ tôi như một
kẻ đã làm xong nhiệm vụ
của mình.” (I want to be remembered as someone who did her
duty.) Chỉ vậy thôi. Không hơn. Chỉ là nhiệm vụ. Không
có chút hơi hướm công thần chủ nghĩa nào cả. Và thứ
hai, trong một cuộc phỏng vấn khác, sau khi đã biết kết
quả bầu cử, khi được hỏi liệu bà có phải chuyển
đến một ngôi nhà mới cho gần với Quốc Hội, cách
ngôi nhà nơi bà đang ở đến bốn giờ lái xe, để dễ
làm việc hay không, bà đáp: Dĩ nhiên. Rồi nói tiếp:
“Đừng quên là tôi có một con chó. Và tôi phải mang
con chó theo với mình.”
Một
phụ nữ học thức, dòng dõi quý tộc, sau mấy chục năm
đấu tranh cho dân chủ, hầu như bị mất tất cả những
gì mình yêu quý. Chồng bà bị ung thư và qua đời năm
1999 ở Anh. Trước đó, mấy lần chồng bà xin sang Miến
Điện thăm bà nhưng lúc nào cũng bị chính quyền Miến
Điện từ chối. Ngày chồng hấp hối, bà không dám sang
Anh để vĩnh biệt chồng vì sợ sẽ không được phép
quay lại quê hương của mình: Giữa quê hương và chồng,
bà đã chọn quê hương. Sau ngày bố chết, hai đứa con
trai của bà vẫn sống ở Anh. Mới năm ngoái, người con
út, lúc ấy đã 33 tuổi, mới xin được visa sang thăm mẹ
lúc bà được trả tự do.
Bao
nhiêu năm đằng đẵng, bà sống một mình. Với một lý
tưởng chưa biết lúc nào thực hiện được.
Và
một con chó.
*
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các
bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý
của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.