Vũ Quang Việt
Số
liệu về nợ công và nợ qua hệ
thống tín dụng ngân hàng là
những số liệu cần thiết để
đánh giá nền kinh tế Việt Nam.
Nhưng số liệu này cho đến gần
đây chỉ được cung cấp nhỏ
giọt và không đầy đủ cho các
tổ chức quốc tế như IMF và ADB và
có thể việc cung cấp cho Quốc hội
cũng thế. Tuy nhiên mới đây Bộ
Tài chính qua báo
cáo của ông Vương Đình Huệ
với Quốc hội đã công bố
nợ của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), chính
phủ cũng công bố nợ công, và
lần đầu tiên Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam công bố trên mạng
của họ một vài số liệu về
tín dụng ngân hàng.
Những số liệu này chỉ có cho năm 2011 dù không đầy đủ và lại không cập nhật hàng quí theo truyền thống quốc tế nhưng cũng là dấu hiệu đáng mừng. Hình như chính phủ muốn minh bạch hơn một chút. Chính sự thiếu minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách thiếu cơ sở, thậm chí đưa đến những hành động sai lầm.
Những số liệu này chỉ có cho năm 2011 dù không đầy đủ và lại không cập nhật hàng quí theo truyền thống quốc tế nhưng cũng là dấu hiệu đáng mừng. Hình như chính phủ muốn minh bạch hơn một chút. Chính sự thiếu minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách thiếu cơ sở, thậm chí đưa đến những hành động sai lầm.
Bài
viết ngắn này chỉ nhằm trình
bày một số thông tin về nợ công,
và nợ qua hệ thống tín dụng
ngân hàng, dựa vào số liệu vừa
mới được cơ quan có trách
nhiệm của nhà nước cung cấp thay
vì những số liệu mà người
viết phải nhặt nhạnh khắp nơi để
tổng kết lại một
cách không chính thức.
Nợ công
Nợ
công theo định nghĩa của Việt Nam
chỉ bao gồm nợ của chính phủ
(gồm cả chính quyền trung ương và
địa phương) hoặc nợ được
chính phủ bảo lãnh. Nợ bao gồm
nợ vay ngân hàng và nợ qua phát
hành công trái, cũng như chi phí
phải trả mà chưa trả được.
Nợ
công theo định nghĩa quốc tế bao
gồm nợ theo định nghĩa của Việt
Nam và nợ của doanh nghiệp nhà nước. Nợ theo định nghĩa quốc tế rõ
ràng là phù hợp với tình hình
Việt Nam. Chính vì nhà nước làm
chủ sở hữu chủ của DNNN do đó
mà nhà nước không thể phủi
tay để chủ nợ đòi bán
tài sản thu nợ
theo đúng luật phá sản, như ta đã
thấy là nợ của Vinashin đã được
chính quyền dồn cho các DNNN khác
phải trả.
Bảng
1. Nợ công của Việt Nam năm 2011
|
Tỷ đồng
|
Tỷ US
|
So với GDP
|
Nợ công theo định nghĩa
Việt Nam
|
1.391.478
|
66,8
|
55%
|
Nợ của chính phủ
|
1.085.353
|
52,1
|
43%
|
Nợ chính phủ bảo lãnh
|
292.210
|
14
|
12%
|
Nợ chính quyền địa phương
|
13.915
|
0,7
|
1%
|
Nợ công theo định nghĩa
quốc tế
|
2.683.878
|
128,9
|
106%
|
Nợ công theo định nghĩa Việt Nam
|
1.391.478
|
66,8
|
55%
|
Nợ của DNNN (trong và ngoài nước)
|
1.292.400
|
62,1
|
51%
|
Nguồn
và chú thích: Vương Đình
Huệ, Bộ Tài chính. Trong nợ nước
ngoài của DNN có thể có 1 phần
do chính phủ bảo lãnh cho nên tổng
nợ có tính trùng, phải trừ đi
khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỷ.
Như
vậy là tổng
nợ công theo định nghĩa quốc tế
vào cuối năm 2011 đã là 128,9 tỷ
USD bằng 106% GDP (121,7 tỷ USD), cao hơn 90 tỷ
USD mà trước đây tác giả
ước tính ở mức tối thiểu.
Tổng
số nợ của DNNN là 62,1 tỷ USD bằng
55% GDP.
Mức
trần tỷ lệ nợ công trên GDP không
quá 65% GDP vào năm 2015 mà chính
phủ đề nghị Quốc hội đã
bị vượt qua từ lâu rồi. Không
ý thức được điều này
thì chính sách trong tương lai sẽ
không thể phù hợp.
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực trả nợ
Theo
ông Huệ, hệ số nợ trên tính
trên vốn tự có là 1,77. Thông thường, người có 1 đồng
vốn có thể dễ dàng đi vay thêm
1 đồng vốn nữa như vậy thì
tỷ lệ trên là 1. Nếu tỷ lệ
càng cao thì mức rủi ro trong sản
xuất càng lớn vì áp lực phải
trả lãi. Với hệ số nợ là
1,77, thì 64% là vốn vay. Chúng ta có
thể dễ dàng làm mô hình về
khả năng phá sản của công ty. Thí
dụ nếu lãi suất trả nợ là
15% nhưng lợi nhuận chỉ là 10% trên
vốn đầu tư thì lợi nhuận
(tính theo doanh thu trừ chi phí phi tài
chính) chỉ đủ trả lãi. Nếu
lợi nhuận thấp hơn 10% thì công
ty lỗ, mất khả năng trả nợ. Phải
chăng đây là trường hợp của
hầu hết DNNN và cả DNTN hiện nay? Theo
ông Huệ, có
đến 30 tập đoàn, tổng công
ty hệ số nợ phải trả/vốn chủ
sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó
có 8 đơn vị có hệ số trên
10 lần, 10 doanh nghiệp từ 5 – 10 lần,
12 tập đoàn, tổng công ty từ 3 -
5 lần. Như vậy có lẽ 30 tập đoàn
này đã mất khả năng trả nợ. Nếu không giảm được lạm
phát, qua đó giảm lãi suất thì
doanh nghiệp nói chung khó có khả
năng sống còn.
Bảng
2. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN,
2011
|
Hệ số trên vốn tự có của DNNN
|
Tỷ lệ
|
Vốn tự có
|
1
|
36%
|
Vốn vay
|
1,77
|
64%
|
Tổng vốn
|
2,77
|
100%
|
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực ngân sách
Nếu
8.8% là nợ xấu thì tổng số nợ
xấu trong nợ công sẽ là 11,3 tỷ
USD. So với tổng ngân sách thu của nhà
nước năm 2011 là 33,8 tỷ USD bằng
28% GDP thì con số nợ xấu trên rất
lớn, vượt ngoài sức chịu đựng
của ngân sách. Trong việc giải quyết
nợ công xấu, ai sẽ là người
chịu thiệt? Không lẽ ngân sách
chỉ dùng để trả nợ xấu? Hay
in tiền tạo lạm phát?
Nợ nước ngoài
Hiện
nay nợ nước ngoài vẫn chưa được
Bộ Tài chính công bố cho năm
2011. Con số năm 2010 ở bảng 3 là từ
Bộ Tài chính, nhưng con số năm
2011 là ước tính dùng tốc độ
tăng của năm trước. Nợ nước
ngoài chưa phải là điều đáng
lo vì nó chỉ bằng 39,8% GDP. Tuy nhiên,
nợ nước ngoài của khu vực doanh
nghiệp tăng mạnh những năm gần đây;
điều này mới là đáng lo
ngại vì thường chúng là nợ
trung hạn chứ không phải nợ dài
hạn của chính phủ.
Bảng
3. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN,
2011
|
Năm 2010
|
Ước tính 2011 theo mức tăng 15%
của năm trước
|
Tổng nợ nước ngoài
|
42,2
|
48,5
|
Nợ công theo định nghĩa VN
|
32,2
|
37
|
Nợ chính phủ
|
27,6
|
31,7
|
Nợ chính phủ bảo lãnh
|
4,6
|
5,3
|
Nợ doanh nghiệp
|
10
|
11,5
|
Tổng nợ công
|
|
128,9
|
Nợ ngân hàng nội địa
So
với các nước trong khu vực, tín
dụng từ nguồn hệ thống tín dụng
nội địa ở Việt Nam là rất
cao; tỷ lệ tín dụng lên tới 121%
GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam
còn ở mức thấp (bảng 4). Dựa vào
tín dụng thay vì vốn tự có để
phát triển kinh tế dễ đẩy nền
kinh tế đến chỗ bong bóng. Tỷ lệ
tín dụng cao so với GDP và cụ thể
hóa trong Bảng 2 ở tỷ lệ vốn vay
trên vốn tự có đã nói rõ
lên điều này.
Bảng
4. Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống
tín dụng trên GDP
|
Tổng dư nợ nội địa trên GDP
|
Trung Quốc
|
145,9
|
Ấn độ
|
75,1
|
Indonesia
|
38,5
|
Mã Lai
|
132,1
|
Philippines
|
51,8
|
Singapore
|
93,6
|
Thái Lan
|
150
|
Việt Nam
|
120,9
|
Nguồn:
Asian Development Bank
(ADB), Key Indicators for Asia and the Pacific 2012
Tổng
nợ của DNNN được tính là
62.1 tỷ USD (Bảng 1) trong khi theo báo cáo
của Việt Nam với Ngân hàng châu
Á (ADB) và IMF, DNNN chỉ vay từ hệ
thống tín dụng là 24,5 tỷ USD
(490.000 tỷ đồng ở bảng 5). Vậy
thì 37,6 tỷ phải là từ trái
phiếu hoặc nợ nước ngoài. Theo
Bản tin số 7 của Bộ tài chính,
nợ nước ngoài của DNNN cao nhất
là 11,5 tỷ USD (vì con số này gồm
cả nợ của doanh nghiệp tư nhân).
Vậy thì 26,5 tỷ USD còn lại trong nợ
của DNNN ở đâu mà ra. Có lẽ
NHNN đã tính sai nợ tín dụng
DNNN vào nợ tư nhân không chừng?
Bảng 5. Dư nợ
của hệ thống ngân hàng, 2011
|
Tỷ đồng
|
Tỷ US
|
Tỷ lệ
|
Tổng tín dụng của hệ thống ngân
hàng
|
3.063.000
|
147,1
|
100%
|
Chính phủ vay
|
232.000
|
11,1
|
8%
|
DNNN vay
|
490.000
|
23,5
|
16%
|
DN
tư nhân& hộ gia đình
vay
|
2.341.000
|
112,4
|
76%
|
Nguồn:
ADB Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for Asia and the
Pacific 2012
Phân phối tín dụng trong hệ thống ngân hàng
Có
thể dựa vào số liệu từ NHNN và
Tổng cục Thống kê để thấy
rằng, phân phối tín dụng trong hệ
thống không phản ánh hoạt động
chung của nền kinh tế. Nông nghiệp,
thủy sản, lâm sản chỉ được
hưởng tỷ lệ tín dụng bằng gần ½ tỷ lệ đóng góp vào
nền kinh tế. Ngược lại xây dựng
được gần gấp đôi. Nhưng
hầu hết tín dụng (67%) là chui vào
khu vực thương mại và dịch vụ,
gấp gần gấp hai lần so với mức
đóng góp của chúng vào nền
kinh tế. Hình như đây là lần
đầu tiên NHNN công bố số liệu
như thế này. Thật ra chúng cần
được công bố thường xuyên
vì vấn đề được đặt
ra là hệ thống ngân hàng phục
vụ ai trong nền kinh tế.
Bảng
6. Phân phối dư nợ tín tụng trong
nền kinh tế, tháng 7 năm 2012
|
Tỷ đồng
|
Tỷ lệ
|
Tỷ lệ hoạt động kinh tế trên GDP
|
Tổng tiền gửi
|
2.693.667
|
|
|
Dư nợ trên tổng tiền gửi
|
|
81%
|
|
Dư nợ cho hoạt động kinh
tế
|
2.176.073
|
100%
|
100%
|
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
|
257.829
|
12%
|
21%
|
Công nghiệp, xây dựng
|
1.160.634
|
53%
|
42%
|
Công nghiệp
|
894.013
|
41%
|
35%
|
Xây dựng
|
266.621
|
12%
|
7%
|
Thương mại, vận tải, viễn thông
|
757.610
|
35%
|
19%
|
Thương mại
|
610.184
|
28%
|
14%
|
Vận tải, viễn thông
|
147.426
|
7%
|
4%
|
Dịch vụ khác
|
703.989
|
32%
|
19%
|
Nguồn:
Ngân
hàng Nhà nước
Để
kết luận, có thể tóm tắt vài
điều nhận xét sau:
-
Kinh tế Việt Nam phát triển bong bóng vì chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng, bằng cách bơm tiền quá lố. Điều này đưa đến lạm phát và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp khi bắt buộc phải thực hiện chính sách chống lạm phát.
-
Tín dụng của hệ thống ngân hàng được phân phối chủ yếu (67%) vào những hoạt động dịch vụ không rõ ràng. Những hoạt động này có thể là những hoạt động đầy rủi ro như chứng khoán, mua địa ốc (khác hoàn toàn với hoạt động xây dựng tạo ra việc làm), lập ngân hàng, v.v. Có thể nói dường như hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động không nhằm phục vụ sản xuất.
-
Để có thể cải cách và bốc thuốc đúng lúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần minh bạch số liệu thường xuyên, không thể để tình trạng như hiện nay như đã vào cuối năm 2012 mà chỉ mới biết số liệu năm 2011, thậm chí năm 2010. Số liệu tài chính tín dụng cần được xuất bản hàng quí cho mọi người sử dụng.
Vũ Quang Việt
17.11.2012
Nguồn:
Tác giả gửi trực tiếp cho Diễn Đàn
Đính chính:
Bảng 6 trong bài viết tác
giả
đã có nhầm lẫn khi làm tổng cộng. Bảng dưới đây
là bảng đã tính lại.
Dự nợ cho nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản chỉ là 9% so với đóng góp vào GDP là
21%. Dư nợ cho dịch vụ là 51% (thay vì 67% như đã viết)
so với đóng góp vào GDP là 38%.
Tháng 7, 2012 |
(Tỷ đồng)
|
Tỷ lệ dư nợ
|
Tỷ lệ hoạt động kinh tế trên GDP, 2011
|
Dư nợ cho hoạt động kinh tế |
2 ,880,062
|
100%
|
100%
|
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản |
257,829
|
9%
|
21%
|
Công nghiệp, xây dựng |
1,160,634
|
40%
|
42%
|
Công
nghiệp
|
894,013
|
31%
|
35%
|
Xây
dựng
|
266,621
|
9%
|
7%
|
Thương mại, vận tải, viễn thông |
757,610
|
26%
|
19%
|
Thương
mại
|
610,184
|
21%
|
14%
|
Vận
tải, viễn thông
|
147,426
|
5%
|
4%
|
Dịch vụ khác |
703,989
|
24%
|
19%
|