Chính phủ Hoa Kỳ đã cho tiết lộ hai tài liệu mật liên quan đến quan điểm của Hoa Kỳ về Hoàng Sa và Trường Sa, đó là biên bản hai cuộc họp về vấn đề Ðông Dương ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ trì.
Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời về VNNhững tài liệu tối mật do Wilikeaks tiết lộ ra đều có tầm mức nghiêm trọng không lường được.
(Chắc chúng ta đều biết là người sáng lập Wikileaks: Julian Assange, hiện đang bị truy nã vì đã tiết lộ tài liệu có thể làm nguy hại đến an ninh của Mỹ)
Tin này đã được phổ biến một cách mập mờ trên mạng từ lâu, bây giờ Wikileaks xác nhận thì có đến hơn 90% là đúng sự thật.
Đây quả là 1 tin buồn cho đất nước, dân tộc Việt Nam với 4 ngàn năm văn hiến, nay đã được đảng Cộng Sản bán sĩ cho Trung Cộng với cái giá không thể rẽ hơn: FREE ...Nếu chúng ta duyệt lại những gì đã xảy ra trong thời gian gần đây:
Giao Hoàng Sa Trường Sa cho TC Giao Tây Nguyên cho TC
Cắt thêm đất biên giới cho TC
Nhường thêm biển vùng vịnh Bắc Việt cho TC
Cho dân TC ra vào biên giới không cần giấy tờ nhập cảnh
Luật lệ VN không dám đụng đến dân TC đang sống ở VN
Cấm dân chúng không được tưởng niệm các tử sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến 1979 với TC.
In sách giáo khoa cấp tiểu học với đường lưỡi bò và hình cờ TC thay vì cờ VN.
Truyền hình nhà nước CSVN dùng cờ TC có thêm 1 ngôi sao nhỏ (tượng trưng cho xứ tự trị mới VN) .....
· ....
tất cả những điều này đều ăn khớp với tài liệu mật này.
Xin quý vị đọc và phổ biến cho mọi thân hữu.
DLĐÂY LÀ BẰNG CHỨNG BÁN NƯỚC CỦA ĐẢNG CSVN DO WIKILEAKS TIẾT LỘ.TIN NẦY ĐÃ ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU LẦN, LẠY TRỜI VIỆC NẦY SẼ KHÔNG LÀ CHUYỆN THẬTNẾU CÓ MỘT NGÀY...THẾ-GIỚI NẦY KHÔNG CÒN VIỆT-NAM ???
Năm 2020 Việt Nam sẽ là một tỉnh của Trung Cộng?Tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.
Trong tài liệu tuyệt mật liên quan tới Việt Nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằm trong số 3.100 các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh của cơ quan ngoại giao Hoa kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa kỳ, tài liệu này có đoạn ghi rõ “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công CNCS, Đảng CSVN và nhà nước Việt nam đề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ và Việt nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng tây…. Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”.
Thôi rồi ! .... Thế là xong ...
Chúng ta có quyền phỏng đoán và chuẩn bị tinh thần cho mọi người và cá nhân mình trước sự thật không mấy tốt đẹp, mà nó liên quan tới sự tồn tại của đảng CSVN trong vai trò lãnh đạo xã hội và nhà nước. Vì nếu khi ta đối chiếu với các tin tức liên quan đến việc phía Việt nam đã cho Trung quốc thuê nhiều chục ngàn hecta rừng đầu nguồn biên giới, lá cờ Trung quốc có 6 ngôi sao (thay vì cờ Trung quốc chỉ có 5 ngôi sao) xuất hiện tại một nhà hàng Trung quốc tại Vũng tàu, hay Dự án boxit Tây nguyên và gần đây nhất là tin Trung quốc tiến hành thu hồi hàng loạt cột mốc biên giới với Việt nam có từ thời Hiệp định Pháp - Thanh (1887) … Trong đàm phán biên giới, họ ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp – Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận thì giả thiết trên là hoàn toàn có cơ sở xảy ra.
Hoa Kỳ tiết lộ vụ Hoàng Sa
Chính
phủ Hoa Kỳ đã cho tiết lộ hai tài liệu mật liên quan đến quan điểm của
Hoa Kỳ về Hoàng Sa và Trường Sa, đó là biên bản hai cuộc họp về vấn đề
Ðông Dương ngày 25/1/1974 và ngày 31/1/1974 do ngoại trưởng Henry
Kissinger chủ trì.
Trước
khi trình bày về tài liệu này, để độc giả có thể nắm được vấn đề một
cách dễ dàng, chúng tôi xin nói qua về tương quan lực lượng giữa Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và quân đội Trung Quốc khi biến cố Hoàng
Sa xảy ra và lý do tại sao Hoa Kỳ từ chối không yểm trợ cho Hải Quân và
Không Quân VNCH chống lại Trung Quốc.
Tương quan lực lượng
Tính
đến năm 1975 Hải Quân VNCH có quân số lên tới 39.000 người, gồm 1611
tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 vùng Duyên Hải, hai vùng Sông Ngòi
và một hạm đội Tuần Duyên với 83 chiến hạm đủ loại. Những chiến hạm có
thể chiến đấu trên biển gồm các loại sau đây: 2 khu trục hạm, 7 tuần
dương hạm, 8 hộ tống hạm, 9 tàu đổ bộ và 4 tàu trợ chiến. Với lực lượng
như thế, Quân Lực VNCH không thể huy động để chống lại được quân Trung
Quốc trên biển hay sao?
Sở dĩ QL/VNCH không thể chống lại Trung Quốc vì các lý do sau đây:
1. Quân
đội Trung Quốc vượt trội hơn Quân Lực VNCH về cả hải quân lẫn không
quân. Trong trận Hoàng Sa, lực lượng hai bên chênh lệch một cách rõ rệt:
Trung Quốc đã sử dụng một lực lượng Hải Quân hùng hậu gồm hơn 16 chiếc
đủ loại, từ tàu đánh cá ngụy trang Nan Yu cho đến hai 2 chiến hạm loại
Hainan 281 và 282, 2 chiến hạm loại Jiangnan 27 và 274 và 4 phi tiển
đỉnh Komar mang số 133, 137, 139, 145. Trong khi đó, lúc đầu HQ/VNCH chỉ
có tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Những ngày tiếp theo VNCH mới
tăng cường thêm các chiến hạm HQ 4, HQ 5 và HQ 10.
2. Trung
Quốc đã huy động cả hải lục không quân để áp đảo, trong khi VNCH không
thể huy động không quân vì Hoa Kỳ từ chối giúp đỡ (chúng tôi sẽ nói
sau).
3.
Vì quyết chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã hoạch định một kế hoạch hành
quân chu đáo: khi lâm trận, họ đã áp dụng chiến thuật “cài răng lược”
khiến HQ/VNCH không thể xoay trở được khiến bị trúng kế địch.
Tuy
các chiến hạm Trung Quốc chỉ trang bị đại bác 100 ly (3.9 in.) hay đại
bác 85 ly (3.5 in), còn chiến hạm HQ 16 của VNCH có đại bác 127 và HQ 10
có đại bác 76,2, nhưng Trung Quốc áp dụng chiến thuật bám sát các chiến
hạm của VNCH trong khoảng cách gần, nên đại bác của HQ/VNCH không sử
dụng được.
Cho
dù cuộc chiến xảy ra ở tầm xa, HQ/VNCH cũng không thể thắng được vì khi
thực hiện “Việt Nam hóa” chiến tranh theo đúng lịch trình của kế hoạch
“Accelerated Turnover to the Vietnamese” (ACTOV), Hoa Kỳ có giao cho
VNCH một số chiến hạm nhưng họ đã gỡ đi các giàn phóng phi đạn được
trang bị trên đó, trong khi nhiều chiến hạm Trung Quớc có trang bị giàn
phóng phi đạn và được không quân yểm trợ.
Tóm lược các diễn biến
Tóm lược các diễn biến
Các bài viết về trận đánh Hoàng Sa có quá nhiều với những cách nhìn khác nhau, chúng tôi chỉ xin ghi lại các nét chính.
Trong
cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại”, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại,
tư lệnh hải quân Vùng I Duyên Hải, người chỉ huy trận đánh Hoàng Sa, kể
lại rằng ngày 15/1/1974, trung tá Lê Văn Thự, hạm trưởng tuần dương hạm
Lý Thường Kiệt HQ 16 được lệnh đưa địa phương quân và nhân viên khí
tượng ra Hoàng Sa thay toán ngoài đó đã hết nhiệm kỳ. Có hai sĩ quan
công binh đi theo để sửa cầu tàu. Ông Jerry Scott, thuộc văn phòng Tòa
Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Ðà Nẵng, cũng xin cho một viên chức Mỹ là Gerald Kosh
đi theo để biết Hoàng Sa. Nhưng khi người nhái của VNCH đổ bộ lên các
đảo Duncan và Drummond thì đụng ngay một toán quân Trung Quốc ở trên đó.
Ngày
17-1, chiến hạm HQ 16 báo cáo hai tàu đánh cá của Trung Quốc không tuân
lệnh ra khỏi lãnh hải VNCH. Sau đó, lại có thêm hai tàu Trung Quốc chở
quân tới gần đảo và đã có nhiều cờ Trung Quốc trên bờ. Bộ Tư Lệnh Hải
Quân ở Sài Gòn đã phái thêm khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 do trung tá
Vũ Hữu San ra tăng cường. Sau đó hai chiến hạm Trần Bình Trọng HQ 5 và
Nhật Tảo HQ 10 cũng được gởi ra Hoàng Sa. Chiều 18-1, các chiến hạm của
hai bên chạy kế ngang nhau và chỉa súng vào nhau.
Phó
đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã liên lạc với Bộ Tư Lệnh Hải Quân tại Sài Gòn
xin cho biết có đơn vị nào của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ ở trong vùng hay
không. Tin tức xác nhận các chiến hạm Hoa Kỳ đang ở rất gần các chiến
hạm VNCH.
Lúc
10 giờ ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy chiến thuật (OTC)
tại mặt trận, đang ở trên soái hạm Trần Bình Trọng HQ 5, báo cáo các
chiến hạm hai bên đang ở vị trí quá gần nhau trong thế “cài răng lược”.
Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lệnh trở ra chiến hạm. Khi toán đổ
bộ đang dùng thuyền cao su chèo ra khơi thì trận chiến bùng nổ.
Bộ
Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải được tùy viên quân sự Hoa Kỳ cạnh Hải
Quân Vùng I cho biết có khoảng 17 chiến hạm Trung Quốc và 4 tàu ngầm
đang hướng về Hoàng Sa. Ông ta cũng cho biết các phản lực cơ chiên đấu
của Trung Quốc sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công các chiến hạm của
VNCH tại Hoàng Sa.
Trận
hải chiến chỉ kéo dài trong hơn 30 phút. Các chiến hạm VNCH không đuổi
theo các chiến hạm Trung Quốc và các chiến hạm Trung Quốc cũng không
đuổi theo các chiến hạm VNCH. Không chiến hạm nào của Ðệ Thất Hạm Ðội
Hoa Kỳ tiến vào nơi có cuộc giao tranh.
Hộ
tống hạm Nhật Tảo HQ 10 bị bắn chìm, thiếu tá Ngụy Văn Thà với 24 quân
nhân khác bị tử thương, 26 người mất tích, 23 thủy thủ trôi dạt được tàu
của hãng Shell vớt.
Hai khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 và Trần Bình Trọng HQ 5 bị hư hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ bị tử thương.
Tuần
dương hạm HQ 16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy, bị trúng đạn nghiêng
một bên, được lệnh quay về Ðà Nằng, có một chiến sĩ bị thương và 16
chiến sĩ khác trôi dạt trên thuyền cao su về đến Quy Nhơn.
Có
43 người đã bị bắt làm tù binh, trong đó có ông Gerald Kosh, được đưa
về Quảng Châu, sau đó được trao trả cho VNCH qua Hội Hồng Thập Tự Quốc
Tế.
Về
phía Trung Quốc, hộ tống hạm Kronkstad 274 bị chìm, hộ tống hạm
Kronkstad 271 và hai trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng, các sĩ quan
chỉ huy là Vương Kỳ Uy, Triệu Quát và Diệp Mạnh Hải đều bị tử trận.
Mỹ từ chối yểm trợ
Có
một điều quan trọng mà phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại không biết đến, đó là
Hoa Kỳ đã từ chối yểm trợ VNCH trong trận chiến Hoàng Sa.
Ngày
18/1/1974, Bộ Tư Lệnh Hải Quân VNCH biết rõ hàng không mẫu hạm USS
Enterprise của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ đang có mặt trong vùng gần Hoàng
Sa. Phó đề đốc Diệp Quang Thủy, tham mưu trưởng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã
hỏi đại tá Kussan, tùy viên quân sự Mỹ tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân rằng phi
cơ chiến đấu của Việt Nam khi đi tác chiến tại Hoàng Sa có thể hạ cánh
xuống hàng không mẫu hạm USS Enterprise để xin tiếp tế nhiên liệu được
không ? Phó đề đốc Thủy cho biết Ðà Nẵng cách Hoàng Sa trên 150 hải lý,
do đó, phi cơ chiến đấu sẽ không đủ nhiên liệu để có thể vừa đi vừa về,
nếu phải mang theo hai bình xăng thì không thể tác chiến được.
Sau
khi trao đổi với Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, đại tá Kussan đã trả lời cho
phó đề đốc Diệp Quang Thủy như sau: Các chiến hạm Mỹ không thể tiếp tế
cho Quân Lực VNCH vì hai lý do sau đây:
Lý
do thứ nhất, Hiệp Ðịnh Paris cấm Hoa Kỳ không được tiếp tục dính líu
quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam (điều
4).
Lý
do thứ hai, Luật War Power Act ngày 2/9/1973 cấm Hoa Kỳ sử dụng lực
lượng quân sự ở Ðông Dương. Vì thế, các chiến hạm Hoa Kỳ không thể tiếp
tế nhiên liệu cho các chiến đấu cơ VNCH được. Các chiến hạm Hoa Kỳ chỉ
có thể cứu giúp quân đội VNCH khi bị các tai nạn mà thôi. Tuy nhiên, đó
phải là các tai nạn bình thường, còn các tai nạn do chiến đấu, các chiến
hạm Hoa Kỳ cũng không thể cứu giúp được.
Cần
lưu ý, trong thời gian còn chiến tranh Việt Nam, Bộ Chỉ Huy Viện Trợ
Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam
– MACV) là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất của Mỹ tại miền Nam Việt
Nam. Tuy nhiên, sau Hiệp Ðịnh Paris, cơ quan này bị hủy bỏ và được thay
thế bằng Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (Defense Attach
Office – DAO) kể từ ngày 28-1-1973, do đó không còn các cố vấn Mỹ nữa mà
chỉ còn các tùy viên quân sự.
Quan điểm của Hoa Kỳ quá rõ
Quan điểm của Hoa Kỳ quá rõ
Như
chúng tôi đã trình bày ở trên, theo tài liệu Hoa Kỳ vừa công bố, trong
hai cuộc họp do ngoại trưởng Kissinger chủ trì ngày 25/1/1974 và ngày
31/1/1974, tức sau khi Hoàng Sa bị mất, vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa đã
được đưa ra bàn cãi. Nội dung tài liệu này đã được đài BBC trình bày
ngày 3/10/2011, chúng tôi xin ghi lại những điểm quan trọng sau đây:
1. Về trận đánh Hoàng Sa
Ðô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề”.
Ngoại trưởng Kissinger: “Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của họ [Nam Việt Nam]?”.
Ðô đốc Moorer: “Toàn
vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác cũng có cùng vấn đề –
đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng
đó”.
Ngoại trưởng Kissinger: “Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?”.
Ðô đốc Moorer: “Một
đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số tàu Trung
Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên đảo Duncan
(Quang Hòa). Ðó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt Thiềm. Họ
phải đối đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang
các đảo gần đó. Bốn tàu Nam Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó
có trận hải chiến trong khi quân Nam Việt Nam rút lui”.
2. Quan điểm của Hà Nội
Ngoại trưởng Kissinger: “Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?”.
William
Colby, giám đốc CIA: “Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới vĩ tuyến 17 và vì
thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường,
không theo bên nào”.
William
Smyser, thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia: “Nó đặt họ vào tình thế tế
nhị. Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên
án việc dùng vũ lực”.
Ngoại trưởng Kissinger “Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào?”.
Ðô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.
William Colby: “Bắc Việt có thể muốn có mỏ dầu tại đó”.
Ông
Clements, thứ tưởng quốc Phòng: “Ðừng quá mơ mộng về khả năng có dầu
tại các đảo đó. Ðó vẫn là chuyện trên trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả,
chỉ là tương lai thôi. Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm
năng”.
Ðô
đốc Moorer: “Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến
khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các
đảo và Nhật đã làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Quốc kể từ
đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là
trên giấy.
Sau đó, Ðô đốc Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: “Chỉ thị của tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực”.
3. Chuyện bảo vệ Phillippines
Trong một cuộc họp ngày 31/11/974 tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, ngoại trưởng Kissinger được thông báo: “Không
có dấu hiệu Trung Quốc định tiến về Trường Sa. Dẫu vậy, có sự lo ngại
đáng kể từ phía Nhật, Philippines và đặc biệt là Nam Việt Nam, mà theo
tin báo chí thì hôm nay đã gửi đoàn 200 người ra chiếm một số hòn đảo
lâu nay không ai ở trong khu vực Trường Sa.
“Ðài Loan đã chiếm ít nhất một đảo và Trung Quốc cũng vậy.
“Trong
bối cảnh này, Philippines đã hỏi Mỹ liệu Hiệp Ước An ninh Mỹ –
Philippines có được áp dụng hay không nếu quân Philippines kéo ra Trường
Sa và bị Trung Quốc tấn công”.
Các
quan chức Mỹ có mặt trong cuộc họp đồng ý rằng không có câu trả lời rõ
rệt và họ muốn để ngỏ sự mơ hồ trong câu trả lời cho Philippines.
Một
người trong cuộc họp, ông Hummel, nói: “Tạp âm xung quanh các tuyên bố
của chúng ta về những hòn đảo này hẳn đã đủ cho người Philippines hiểu
rằng chúng ta không có ý định hay chúng ta không muốn”.
Ngoại trưởng Kissinger kết luận: “Câu trả lời của chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.
Một vài nhận xét
Qua các sự kiện vừa được trình bày nói trên, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
1.
Hoa Kỳ không muốn can dự vào các tranh chấp về chủ quyền trên Biển Ðông
vì sợ đụng chạm với Trung Quốc, nơi Hoa Kỳ có rất nhiều quyền lợi.
Mặc
dầu trong chuyến viếng thăm Á Châu vừa qua, tổng thống Obama đã cho các
quốc gia trong vùng hiểu rằng Mỹ sẽ “bao vây” Trung Quốc cả về kinh tế
lẫn quân sự, nhưng trong cuộc họp báo hôm 8/12/2011 tại Bắc Kinh, kết
thúc cuộc đối thoại quốc phòng thường niên Mỹ-Trung, bà Michele
Flournoy, thứ trưởng bộ quốc phòng Hoa Kỳ, khẳng định việc Washington
tăng cường các liên minh quân sự tại Á Châu không nhằm mục đích “ngăn
chặn” Trung Quốc.
2.
Giữa Philippines và Mỹ có hiệp ước ngày 30/8/1951 bảo vệ các hòn đảo,
tàu thuyền và máy bay của Philippines trên Thái Bình Dương khi bị tấn
công, nhưng khi có đụng độ, Philippines có thực sự được bảo vệ hay không
là vấn đề khác. Ngoại trưởng Kissinger đã nói rất rõ: “Câu trả lời của
chúng ta là đúng. Chúng ta không nên nói chúng ta sẽ bảo vệ họ”.
Bản
tin của đài VOA ngày 24/6/2011 cho biết trong cuộc họp ngày 23/6/2011,
ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, nói với ngoại trưởng
Philippines Albert del Rosario rằng Hoa Kỳ cam kết bảo vệ Philippines
giữa lúc xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại Biển Nam Trung
Hoa. Nhưng tờ Philippines Daily Inquirer dẫn lời giáo sư Pacifico
Agabin, cựu khoa trưởng luật khoa của Ðại học Philippines, cho biết nội
dung của bản hiệp ước ký năm 1951 ghi rõ Mỹ không tự động bảo vệ
Philippines một khi có xung đột trên biển Ðông. Ðiều 4 của hiệp ước này
quy định trong trường hợp xảy ra tấn công trên Thái Bình Dương, tổng
thống Mỹ phải được sự chấp thuận của Quốc hội mới tiến hành điều quân.
3.
Hoa Kỳ từ chối tiếp tế xăng cho các phi công VNCH để tác chiến ở Hoàng
Sa và nói rất rõ lý do tại sao Hoa Kỳ không thể làm như vậy. Ðiều này
chứng tỏ Hoa Kỳ không còn muốn dính líu gì đến miền Nam Việt Nam nữa.
Nhưng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người được Mỹ đưa lên cầm quyền ở
miền Nam, quá yếu kém về chính trị, không thể hiểu được như vậy. Ông cứ
nằng nặc đòi thêm viện trợ và cuối cùng chơi trò “tháu cáy”, rút khỏi
Cao Nguyên và miền bắc Trung phần, để Mỹ hoảng sợ miền Nam mất, phải
nhảy vào. Nhưng Mỹ đã không can thiệp khiến miền Nam bị sụp đổ một cách
nhanh chóng, gây tang thương cho không biết bao người. Tôi ấy trời khó
dung và đất khó tha.
4.
Tất cả các sự kiện được trình bày nói trên cho thấy cả Việt Nam lẫn
Philippines phải tự lo lấy thân phận mình, đứng trông chờ ở Mỹ.
Nguồn: Ethongluan.org