Nguyễn Nghĩa650 (Danlambao) - Đặt tên cho quốc gia của mình, mỗi nước có một quan điểm riêng. Nước Pháp tự nhận là Cộng hòa Pháp để vinh danh dân tộc mình đi đầu trong xã hội loài người, đấu tranh cho Bình đẳng, Tự do, Bác ái. Nước Mỹ đơn giản chỉ nêu lên đặc trưng lớn nhất của quốc gia mình: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Việt Nam ta, trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tên nước đã nhiều lần thay đổi.
Theo dòng lịch sử, nước Việt Nam đã có các tên nước như sau:
0. Xích Quỷ. Tên gọi này xuất hiện vào quãng 3000 năm TCN.
1. Văn Lang. Quốc gia này tồn tại sau Xích Quỷ cho đến năm 258 TCN.
2. Âu Lạc. Quốc gia này tồn tại trong khoảng 257-179 TCN
3. Vạn Xuân (544-602).
4. Đại Cồ Việt (968-1054).
5. Đại Việt (1054- 1804). Quốc hiệu này bị gián đoạn 27 năm do Nhà Hồ đặt lại tên nước và Đại Ngu và giặc nhà Thanh xâm lược nước ta 20 năm.
5. Đại Ngu (1400-1407). Chữ Ngu ở đây có nghĩa là yên vui, thái bình. Sau đó từ 1427 tên nước lại trở lại Đại Việt.
6. Việt Nam (1804-1839)
7. Đại Nam (1939-1945)
8. Đế Quốc Việt Nam (17/04/1945-02/09/1945)
9. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (02/09/1945-1976).
10. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.(1976- đến nay).
Giai đoạn lịch sử Xích Quỷ vẫn còn gây tranh cãi, nên tạm thời ta không tính đến. (theovi.vikipedia.org: "Tên gọi Việt Nam")
Như vậy từ Văn Lang đến CHXHCN VN có quãng 10 tên gọi.
Trong 10 tên gọi ấy, thì có Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Ngu, Đại Việt, Đại Nam, Đế Quốc Việt Nam là 6 tên nước nói lên mong muốn cường thịnh, hùng mạnh làm chủ 1 cõi của dân tộc Việt Nam ta (chữ Vạn, chữ Đại và chữ Đế Quốc).
Thời gian Việt Nam dưới 6 tên gọi này là ước khoảng gần 900 năm.
Dưới tên gọi Đại Việt, nước Việt Nam ta đã có thời thái bình thịnh trị và thuộc giai đoạn hùng mạnh nhất lịch sử Việt Nam: Triều đại vua Lê Thánh Tông.
Như vậy mong muốn hùng mạnh một phương (Đại) là mong muốn có tính trội bật của tộc Việt trên bán đảo Đông Dương.
Những ngày hôm nay, truyền thông "lề đảng" nói nhiều đến việc từ bỏ tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay và trở lại tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Đây là 1 điều đáng hoan nghênh và đáng chê trách.
Hoan nghênh ở chỗ ĐCS VN đã nhận ra tính lạc hậu của tư tưởng XHCN theo Mác và Lê Nin.
Cụm từ XHCN đã gây dị ứng với hầu hết tất cả các dân tộc tiên tiến trên quả địa cầu này.
Người Việt Nam cần hộ chiếu CHXHCN VN chỉ tủi nhục và hổ thẹn khi vượt qua khỏi biên giới Việt Nam.
Đáng chê ở chỗ họ đã muốn quay lại 1 cái tên đã mang nhiều thất bại của dân tộc Việt Nam.
Trước hết là sự phản bội dân tộc của ĐCS VN.
Họ dành độc lập từ Pháp, nhưng lại choàng vào cổ dân tộc này ách cộng sản đảng trị.
ĐCS VN đã phản bội truyền thống chống giặc Tầu ngoại xâm của dân tộc, nhận viện trợ XHCN của chúng để chia cắt nước Việt Nam 1954.
Đây là hiệp định vi hiến đối với Hiến pháp 1946. Điều thứ 2 (HP 1946) qui định: "Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia."
Dưới tên nước VN DC CH, ĐCS VN đã tiến hành cải cách ruộng đất, giết hại tầng lớp Địa chủ, rường cột của nhà nước phong kiến Việt Nam.
ĐCS VN còn cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, phá hoại tầng lớp tư sản dân tộc non nớt.
Tiến hành cuộc chiến tranh Nam-Bắc không được Quốc hội chuẩn y...
Dưới tên gọi VN-DC-CH là chế độ tem phiếu, mà với bờ biển hơn 3300 km, thiếu cả muối ăn.
Dưới tên gọi VN-DC-CH là vụ án Nhân văn giai phẩm, tước quyền suy nghĩ, phản biện của dân tộc VN.
Dưới thời VN-DC-CH là công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958, là đồng lõa với Tầu khựa cướp Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974.
Dưới tên nước VN-DC-CH là mối tình hữu nghị Việt Trung được chính 2 Chủ tịch Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh dày công vui đắp:
"Mối tình hữu nghị Việt Trung,
Vừa là đồng chí vừa là anh em." (HCM)
...
Thực chất dưới tên nước VN-DC-CH là sự đầu hàng chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc của ĐCS VN, để hệ lụy mất Biển Đông, hệ lụy chiến tranh với TQ trên Biển Đông hôm nay, cho con cháu Việt Nam.
Tóm lại tên nước VN-DC-CH là một cái tên cần nhắc lại, đến, nhưng là nhắc đến những bài học xa rời truyền thống dân tộc, phụng sự cho tư tưởng Mác Lê Nin, xa lạ với dân tộc Việt Nam và nhất là những hệ lụy đã tạo nên tiền đề cho thắng lợi của chủ nghĩa bành trướng đại Hán hôm nay.
Giai đoạn của tên gọi VN-DC-CH là giai đoạn của chiến tranh với Pháp, tàn hại đồng bào Việt Nam trong CCRĐ, chiến tranh với Mỹ, chiến tranh 2 Miền huynh đệ tương tàn, và nhục nhã quị lụy Trung Quốc...
Đây quyết không phải là cái tên mang lại hưng thịnh và tỏ rõ mong muốn hùng cường của khí phách Việt Nam.
Sau chiến tranh Tây-Nam và phía Bắc năm 1978-1979, truyền thông Trung Quốc ra rả qui kết "Tiểu Bá" cho VN.
Sợ Trung Quốc đến nỗi, ĐCS VN tình nguyện cam tâm bắt tù những nhân kiệt, tinh hoa yêu nước của dân tộc Việt Nam, như Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ, Việt Khang... và hôm nay Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Khang... chỉ vì họ có lòng yêu nước truyền thống Việt Nam.
Chúng ta tuyên bố thẳng: Việt Nam không làm tiểu bá, nhưng Việt Nam không bao giờ làm chư hầu cho Trung Quốc.
Chúng ta sẽ lên án mọi hành động cam tâm làm nô lệ cho TQ của ĐCS VN.
Việt Nam không Tiểu bá, nhưng Việt Nam sẽ là Đại Nam với tinh thần lớn: Tinh thần dân chủ.
Người dân Việt Nam sẽ là những con người lớn bởi mang Nhân Quyền của thời đai.
Chúng ta đòi hỏi quyền làm người cho người dân Việt Nam, như quyền làm người của các dân tộc Mỹ, Pháp, Thụy Điển...
Chúng ta sẽ là những con người, có quyền con người để cai quản đất nước: Cộng Hòa Dân Chủ Đại Việt.