THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

15 July 2011

Cầu chưa kịp khánh thành đã sập


Bookmark and Share


BẾN TRE (TH) -
 Chuyện tưởng như đùa lại là chuyện thật vừa xảy ra tại tỉnh Bến Tre khi một chiếc cầu sắp được khánh thành thình lình đổ sập trưa ngày 12 tháng 7.

Chiếc cầu Bà Hạc sập ngày 12 tháng 7. (Hình: báo Người Lao Ðộng)

Theo VTC News, đó là chiếc cầu mang tên Bà Hạc bắc ngang sông Thành Thới A ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, dài 48m, rộng 3.5m nối liền hai ấp Thới Hòa và Thới Khương.

Ðây cũng là chiếc cầu mà người dân trong vùng gọi là "chiến lược" vì cầu dẫn tới phà Cổ Chiên để đến tỉnh Trà Vinh, rút ngắn đoạn đường đi lại giữa tỉnh này và tỉnh Bến Tre.

Ban điều hành cầu cho biết cầu Bà Hạc đã được "căn bản hoàn thành" và thông xe từ cuối năm 2010, đang trong giai đoạn "hoàn thiện" trước khi làm lễ khánh thành.

Trong khi đó theo báo Người Lao Ðộng, ban điều hành cho phép xe cộ qua lại cầu vì nhu cầu cấp thiết của người dân. Vào ngày nói trên, chiếc xe vận tải chở 5 tấn thức ăn gia súc vừa băng lên thì cầu bỗng vặn mình rồi đổ sập. Cả chiếc xe vận tải đổ ụp xuống sông. (PL)

Ngư dân Quảng Ngãi lại bị TQ tịch thu tài sản


Tàu cá Việt Nam

Tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi lại vừa bị tàu Trung Quốc tịch thu tài sản và xua đuổi khi đang đánh bắt trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam.

Báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh (PLTP) trích nguồn lực lượng biên phòng Quảng Ngãi cho hay sự kiện xảy ra từ hôm 05/07.

Hãng thông tấn AP văn phòng Hà Nội cũng dẫn nguồn quan chức tỉnh xác nhận tin này.

Bản tin của báo PLTP cho hay vào khoảng 10 giờ sáng ngày 05/07, thuyền cá mang số hiệu QNg-98868 TS do ông Nguyễn Thừa ( xã Phổ Quang, huyện Đức Phổ) làm chủ đang hoạt động tại phía đông bắc quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

"Các ngư dân đang đánh lưới cản thì có một tàu chiến của Trung Quốc mang số hiệu 44861 đuổi theo."

PLTP nói chiếc tàu Trung Quốc đã thả một canô chở 10 lính có trang bị tiểu liên và dùi cui xông lên tàu, đánh đập thuyền trưởng, lục soát và thu giữ khoảng một tấn cá.

"Sau đó, lính Trung Quốc đuổi các ngư dân, không cho đánh cá ở vùng biển này."

Đã nhiều lần ngư dân Quảng Ngãi khi đánh bắt gần Hoàng Sa đã bị tàu Trung Quốc ngăn chặn và hành xử thô bạo.

Trước sự việc ngày 05/07, được biết tàu cá số QNg 66074 (của ông Trần Hiền, trú ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) cũng bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 45012 có trang bị vũ khí tịch thu ngư cụ và tài sản khi tàu của ông Hiền đang neo đậu tại khu vực đảo Đá Lồi gần Hoàng Sa.

'Hướng dẫn dư luận'

Cho tới nay, chưa thấy Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng về các trường hợp trên.

Việt Nam cũng chưa có phản ứng gì trước việc Trung Quốc mới đây điều tàu ngư chính tới Trường Sa.

Hôm 11/07, Trung Quốc đã làm lễ tiễn tàu ngư chính 46012 lên đường đi tuần tra ở khu vực quần đảo Trường Sa, mà Trung Quốc gọi là Nam Sa, thay cho tàu 301.

Tân Hoa Xã cho hay tàu ngư chính 46012 với thủy thủ đoàn 22 người sẽ hoạt động ở khu vực đảo Vành Khăn trong thời gian 50 ngày, thông qua đó "thể hiện chủ quyền và sự quản lý của Trung Quốc" đối với quần đảo Trường Sa.

Hồi tháng Tư, Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Trung Quốc điều tàu ngư chính tới Trường Sa, nói đây là hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam.

Tuy nhiên hoạt động mới nhất này chưa gặp phản ứng tương tự.

Mới đây, trong cuộc gặp giữa Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn và người tương nhiệm Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 25/06, hai bên đã thống nhất "tăng cường định hướng dư luận nhằm tránh có những lời lẽ và hành động vốn có thể gây phương hại tới quan hệ hữu nghị và tin tưởng lẫn nhau giữa nhân dân hai nước".

Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội sau đó đã gặp sự ngăn cản mạnh mẽ từ phía chính quyền.

Hiện đang có kêu gọi người dân tiếp tục hoạt động biểu tình chống Trung Quốc vào Chủ nhật 17/07 tới.

Ðã đến lúc nói thật


Cho đến nay chính quyền Hà Nội vẫn cứ úp mở về bức công hàm mà cố thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã viết cho Bắc Kinh.

Và trong khi đó, Bắc Kinh, bất cứ lúc nào có cơ hội, cũng nhắc lại bức công hàm này.

Vậy bức công hàm đó đã xác nhận điều gì. Như một số học giả trong nước đã nhắc lại, năm 1958, Bắc Kinh đã ra một tuyên bố về lãnh hải. Các tài liệu của các học giả ở trong nước thường nói là việc Bắc Kinh đưa ra tuyên bố về lãnh hải này là vì sợ Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ gửi đệ thất hạm đội đến eo biển Ðài Loan sau cuộc pháo kích kinh hồn của Trung Quốc vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ vào giai đoạn năm 1956. Lý luận đó thực vô lý vì Hoa Kỳ gửi hạm đội đến vùng này chỉ vì sợ Bắc Kinh thôn tính Ðài Loan.

Bản tuyên bố đưa ra năm 1958 có một số điều đặc biệt là về lãnh hải tính theo hải phận từ các hòn đảo mà bản tuyên bố bao gồm đảo Ðài Loan, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặc dầu xác nhận hải phận chỉ có 12 hải lý, nhưng bản tuyên bố khẳng định "Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính từ các đường căn bản này là hải phận của Trung Quốc." Bản tuyên bố còn khẳng định là nếu không có sự cho phép của Bắc Kinh thì "tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuân thủ các luật lệ liên hệ của chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa".

Trong một bản phân tích công phu của trên IBRU Boundary and Security Bulletin, Tiến Sĩ Daniel J. Dzureck giải thích là nguyên tắc đường thẳng, mà tiếng Anh gọi là "baseline" đã được Trung Quốc định nghĩa rộng hơn bình thường. Tính hải phận theo baseline, theo Công Ước Quốc Tế về Luật Biển chỉ được tính đối với đất liền dựa trên đường lúc triều xuống đánh dấu bởi các bản đồ được công nhận bởi quốc gia đó. Trong các đoạn có nhiều eo biển, công ước công nhận việc nối hai đỉnh của eo biển nếu eo biển đó không có tranh chấp chủ quyền.

Sau khi ký vào Công Ước Quốc Tế về Luật Biển năm 1982, Bắc Kinh cũng khẳng định thêm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Trong văn bản đính kèm được gửi đến ông tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Bắc Kinh còn đưa ra thêm khẳng định "Tái xác định những điều khoản của công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển liên quan đến việc lưu thông vô tư qua vùng biển lãnh hải sẽ không thay đổi quyền của quốc gia duyên hải yêu cầu, theo đúng luật lệ của mình, một quốc gia khác phải xin phép trước và thông báo cho quốc gia ven biển cho việc di chuyển của các chiến hạm qua vùng biển của quốc gia này."

Tiến Sĩ Dzurek đã bày tỏ ngạc nhiên "Thật bất bình thường cho một quốc gia thêm một đòi hỏi chủ quyền trong văn kiện đính kèm. Lời tuyên bố đính kèm chữ ký công nhận công ước cũng tái xác nhận chủ quyền hải đảo và những lời lẽ lộn xộn về lưu thông vô tư." Nhiều quốc gia coi cả hai điều kiện về "chấp thuận trước" và "thông báo trước" là đi ngược lại với công ước năm 1982.

Ông Dzurek cũng nói là Bắc Kinh không định nghĩa rõ ràng khu vực đặc quyền khai thác của họ, nhưng với các vùng biển ven biên bao quanh Trung Quốc, hẳn là có nhiều khu vực vùng 200 hải lý sẽ đụng với các quốc gia láng giềng. Bắc Kinh có hứa là sẽ điều đình với các quốc gia lân bang thành ra phải nói khu vực đặc quyền 200 hải lý của Bắc Kinh chưa định hình.

Một trong những điều mà ông Dzurek ghi nhận là đường thẳng của Bắc Kinh trong vịnh Bắc Việt sẽ đụng sâu vào vùng hải phận của Việt Nam, bởi nếu đúng vậy thì Bắc Kinh phải ngừng lại bên ngoài vịnh Bắc Việt và cùng lắm chỉ nhận một phần nhỏ của vịnh này.

Ông Dzurek khẳng định là Bắc kinh đã định đường hải phận tính qua các hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa mà họ không được quyền theo luật biển. Ðiều 46 của Luật Biển xác định là chỉ có các quốc gia quần đảo mới có quyền tính hải phận theo đảo, một điều mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không áp dụng được, và việc tính này phải dựa trên tỷ số đất liền so với biển ở tỷ lệ 1:1 hay 9:1. Khu vực Bắc Kinh nói là chủ quyền quanh quần đảo Hoàng Sa lên đến 17,400km2. Những vùng đất của quần đảo Hoàng Sa không được xác định rõ ràng nhưng nếu đúng theo tiêu chuẩn của luật biển thì cần phải có 1,933km mới đủ tỷ lệ đất đai so với nước.

Lúc đó, Bắc Kinh chưa vẽ đường hải phận bao quanh quần đảo Trường Sa. Mới đây họ vẽ thêm khu vực đó và nhờ vậy cộng lại thành đường lưỡi bò, hay đúng hơn đường thẳng 9 đoạn.

Cũng năm đó, Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng của Hà Nội gửi một công hàm cho Thủ Tướng Chu Ân Lai trong đó ông Ðồng viết "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt biển".

Tuyên bố rất rõ ràng và phải nói là Bắc Kinh đúng khi họ nói Hà Nội đã công nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một số các nhà nghiên cứu trong nước biện luận là lúc đó, chính phủ Hà Nội đang trong thế cô, cần sự giúp đỡ của Trung Quốc, vả lại cũng còn chưa thấy có thể đạt được mục tiêu thống nhất đất nước dưới quyền họ chứ đừng nói đến hải đảo, thành ra đã chấp nhận việc đó.

Lý luận như vậy nghe không ổn bởi điều mà các sử gia chỉ ra là trong giai đoạn đó, dầu cho Hà Nội không đưa ra công hàm này, Bắc Kinh cũng không ở trong cái thế có thể làm gì được Hà Nội. Ngược lại, trong cái thế tay đôi của thế giới Cộng Sản hồi đó, Bắc Kinh vẫn phải cạnh tranh giành ảnh hưởng với Nga nữa. Việc ông Ðồng đã gửi công hàm này quả là một hành động nhẹ nhất thì cũng là thiếu suy nghĩ, mà tệ hơn thì phải nói là quá hèn.

Bởi lãnh thổ kể cả vùng trời vùng biển là di sản của cha ông để lại. Ngay đến Việt Nam Cộng Hòa, mà Hà Nội vẫn coi là tay sai của Ðế quốc Mỹ, cũng không thể lòng dạ nào mà ký vào một công hàm công nhận bán đứng một phần lãnh thổ. Khi Bắc Kinh, thừa nước đục thả câu, tấn công vào quần đảo Hoàng Sa để khẳng định một phần của đường lưỡi bò, chính phủ Cộng Hòa, mặc dầu thế cô sức yếu, đã cương quyết tìm cách bảo vệ lãnh thổ. Tất cả các chính phủ Việt Nam, kể cả chính phủ Trần Văn Hữu tại Hội nghị Cựu Kim Sơn, đều đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại hội nghị Cựu Kim Sơn năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu đã kết luận bài diễn văn của ông với lời khẳng định "Việt Nam rất hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy, cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm móng tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa".

Chỉ có mỗi chính quyền Cộng Sản đã không khẳng định chủ quyền đó. Thế ra không phải bây giờ mà từ năm 1958, điều quan trọng vẫn là phải bảo vệ đảng hơn là bảo vệ tổ quốc.

9
0
 
Rate This

Giữ Ghế Và Giữ Nước


Tôi tha phương cầu thực đã lâu, vốn liếng tiếng Việt cứ theo thời gian mà dần dần… cạn. Trò chuyện với đồng hương, đôi lúc, vẫn chêm vài chữ tiếng Anh – nghe kỳ chết mẹ!

Nói đã thế, đọc cũng mỗi lúc một thêm vất vả. Hôm rồi,xem một đoạn văn ngắn (giới thiệu bài "Tự Thuật Của Hà Sĩ Phu Về Một Cuộc Toạ Đàm Cùng Sứ Quán Hoa Kỳ") trên mạng Bauxite Việt Nam mà cứ băn khoăn mãi:

"… Cũng như quý độc giả, BVN xin lắng nghe những gì tâm huyết của ông Hà Sĩ Phu, trong khi vẫn xem xét cân nhắc các chủ kiến của mình, đã từng công bố trên hai bài xã luận gần đây nhất. Ví dụ: theo chúng tôi cái gọi là chủ nghĩa xã hội Trung Quốc chỉ là một sự lừa mị nhân dân Trung Quốc và lừa mị cả giới cầm quyền Việt Nam cùng một số nước 'anh em' khác – cái thứ chủ nghĩa xã hội giả hiệu đó đã và đang là một trong hai gọng kìm bóp Việt Nam đến lè lưỡi, nhằm phục vụ không phải việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ngược lại, là giành thắng lợi cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan bá quyền bành trướng của chính Trung Quốc, và làm suy yếu hẳn chủ nghĩa dân tộc chính nghĩa vốn có tiềm năng trở thành một sức mạnh vô địch trong cơ thể dân tộc chúng ta từ bao đời. Nếu người cầm quyền Việt Nam còn mắc vào cái bẫy tai hại đó, nhất là còn tư duy theo kiểu chủ nghĩa cộng sản quốc tế, đảng 'anh' nói gì thì đảng 'em' phải vâng lời, thì mọi cố gắng trước nay nhằm gầy dựng lại tinh thần dân tộc của các nhà cách mạng lão thành và trí thức chân chính sẽ chỉ là công cốc. Tuy nhiên, nếu sự thể không tránh được thì điều đó âu cũng không phải là hoàn toàn bất lợi, vì đó cũng là thời cơ để nhìn rõ trắng đen, gian ngay, góp phần vào quy luật thanh lọc của lịch sử."

"Về quan hệ giữa Việt Nam với các nước có vị thế siêu cường hiện tại, nhất là Hoa Kỳ, trong ván cờ toàn cầu hóa hiện nay, chúng tôi chủ trương luôn luôn phải tỉnh táo, vì Hoa Kỳ tuy rất mạnh, là một chỗ dựa lý tưởng, song trong mọi mối quan hệ họ cũng phải nhắm vào hai chữ 'lợi ích' đối với nước họ là chính. Tuy nhiên, không vì thế mà cứ bảo lưu cái gọi là 'cảnh giác' ngu tối và không kịp thời vạch ra một chiến lược đầy đủ, sáng suốt để đặt mình vào đúng giữa dòng chảy của lịch sử cũng như tiến hành mọi mối quan hệ thật đúng thời cơ, không chậm trễ, khiến lại rơi vào dòng nước ngược một cách tai hại. Điều này đòi hỏi người cầm quyền một bản lĩnh đột xuất, làm sao chuẩn bị sẵn trong đầu một cương lĩnh với tầm nhìn viễn kiến về nhiều phương diện, và vạch được trước hàng chục chứ không phải chỉ một thế cờ. Nhất là không thể để tình trạng manh mún, rệu rã, vô lực, xa lánh quần chúng và trí thức, đụng đâu hỏng đấy, và đối phó từng việc theo kiểu 'tiểu khí' như hiện nay…"

Tôi không chắc là mình hiểu rõ nghĩa của hai chữ "tiểu khí" trong đoạn văn thượng dẫn. Việt Nam Tự Điển – Khai Trí Tiến Đức không thấy có hạn từ này. Trong máy có lắp sẵn Vdict.com nên xem qua (Vietnamese – Vietnamese Dictionary) thì thấy ghi rằng: "danh từ [ít dùng] tính khí hay tự ái, tức giận vì những điều nhỏ nhặt.French – Vietnamese Dictionary cũng chú nghĩa tương tự: "habitude de se mettre en colère pour riens và petiteness d'esprit" mà theo tôi hiểu là tâm địa hẹp hòi hay lòng dạ nhỏ nhen.

Chả hiểu tâm địa và lòng dạ của qúi vị lãnh đạo ở Việt Nam ra sao mà những bậc thức giả của đất nước này phải lên tiếng cảnh báo (nghe) não nề đến thế? Câu trả lời có thể tìm được (ngay) trên mạng Bauxite Việt Nam, qua nội dung của "Một Thông Báo Khẩn," đọc được vào hôm 19 tháng 6 năm 2011:

"Bạn đọc thân mến,

Trong vòng ba ngày qua, trang boxitvn.net bị 'kẻ lạ' và 'kẻ quen' liên tục tấn công DDoS (từ chối dịch vụ), ra đòn hàng loạt, nặng nhất từ trước đến nay.

Cho tới giờ phút này, có thể nói chúng đã chia thành 3 đợt đột kích vào trang mạng để quyết phá cho được hàng phòng ngự của chúng tôi. Sau đợt đầu, kỹ thuật viên chúng tôi kiên cường chống trả, đẩy lùi được một lúc. Tiếp đó chúng lại tấn công đợt thứ nhì, và lại bị đẩy lùi. Ngay giờ phút này chúng đang tấn công đợt thứ 3 (tăng công suất lên gần gấp 3 lần đợt đầu tiên).

Trước trận đòn sinh tử, chúng tôi vẫn không lùi bước.

Tình hình ra sao sẽ xin thông báo tiếp tới quý bạn."

Trước đó, không lâu, trên trang mạng Dân Luận, độc giả cũng đã có dịp xem qua một đoạn văn với nội dung tương tự:

"Một xã hội muốn phát triển cần có phản biện, cần chấp nhận tranh luận. Nếu các anh nghĩ những gì Dân Luận nói là không đúng, chúng tôi sẵn sàng đón nhận những phản biện của phản biện từ các anh, để hai bên có thể hiểu nhau hơn, đồng thời giúp cho bên thứ ba, các độc giả, có cái nhìn đúng đắn hơn về một sự kiện cụ thể… Thay vì đối thoại, các anh đã chọn phương pháp bịt miệng đối phương. Thay vì thuyết phục, các anh lại tìm cách gieo rắc sự sợ hãi và nghi ngờ, bằng cách tung thông tin cá nhân của các thành viên Dân Luận lên mạng. Điều đó chứng tỏ các anh không chứng minh được chúng tôi sai. Nó cho thấy các anh đang bối rối và sợ hãi trước sự lan truyền ngày càng rộng hơn của sự thật trên mạng Internet."

Đọc đến đây thì một kẻ kém cỏi tiếng Việt (cỡ tôi, hay hơn nữa) cũng phải hiểu ra thế nào cách hành sử "tiểu khí" của những vị quan chức lãnh đạo ở Việt Nam, hiện tại. Vấn đề, đã thế, lại chưa dừng ở đó. Tâm địa hẹp hòi, và lòng dạ nhỏ nhen của họ không chỉ thể hiện (giới hạn) trong lãnh vực truyền thông.

Ngày 1 tháng 7 năm 2011, trên mạng Đàn Chim Việt, người ta đọc được "Đơn Thư" của một công dân Việt Nam, bà Cù Thị Xuân Bích, với lời mở đầu như sau:

"Kính gửi: Quý Báo

Gần đây có một số Công an (An ninh) đã đến từng nhà riêng của những người ký Kiến nghị yêu cầu trả tự do cho TS Cù Huy Hà Vũ để đe dọa và tung tin bịa đặt về tư cách của TS Cù Huy Hà Vũ, hòng gây hoang mang trong dư luận, dọn đường cho việc xét xử TS Cù Huy Hà Vũ trước phiên tòa phúc thẩm sắp diễn ra . Vì những lý do đó mà hôm nay, tôi, Cù Thị Xuân Bích, em gái TS Cù Huy Hà Vũ, đã có đơn thư gửi tới Bộ Chính trị, Ban Bí Thư, Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Công an, Chánh án Tòa án tối cao và Viện trưởng VKS nhân dân tối cao. Đề nghị Quý báo cho đăng để những ai quan tâm được rõ.

Trân trọng cảm ơn Quý Báo"

Cách đó chưa lâu, vào ngày 2 tháng 12 năm 2010, một công dân Việt Nam khác, bà Dương Thị Tân cũng đã cho phổ biến một bức "Thư Tố Cáo". Xin được trích dẫn vài đoạn ngắn:

"Con tôi đã 2 lần bị chận đánh ngoài đường, gây thương tích (có người chứng kiến). Bản thân tôi cũng bị chận đánh nhiều lần. Ông Nguyễn Văn Hải từng 'được' Trung tá Hoàng Trọng Dũng (An ninh CA TPHCM) nghênh ngang tuyên bố: 'Đánh để bác sĩ nhìn không ra, luật sư tìm không thấy, đánh cho mất khả năng đàn ông, chích cho lây nhiễm AIDS, làm cho suy kiệt mà chết'. Nhà tôi từng bị cột cửa bên ngoài nhiều lần vào các ngày 8/3/2010, 11/3/2010, 13/3/2010 và 22/10/2010 khi các con tôi đang ở bên trong. (Ngày 13/3/2010 tôi có lên CAP8 quận 3 trình báo sự việc 4 lần nhưng CAP8 quận 3 không xuống xem xét và giải quyết)."

"Trong cuộc sống, gia đình tôi không gây thù chuốc oán, chính quyền địa phương chưa một lần phải xử lý về vấn đề gì, thì tại sao giờ này bản thân ông Hải, tôi (Dương Thị Tân, người luôn được Cơ quan Công an nói rằng 'không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến ông Hải') và các con của chúng tôi luôn bị đe dọa đến mạng sống, các con tôi còn bị tước đi quyền được đi học, thi cử một cách tùy tiện, trái pháp luật (cả 2 cháu đều bị nhiều lần). Điều đáng nói là những việc làm vô nhân đó lại được một bộ phận người khi hành động luôn luôn nhấn mạnh rõ ràng: 'Chúng tôi là CAND đang làm nhiệm vụ theo lệnh của cấp trên', luôn luôn tự nhận họ 'đại diện cho luật pháp', 'đại diện cho nhân dân'. Họ hành động và hò hét như thể họ được 'miễn dịch' với luật pháp, hay họ là một thế lực được luật pháp bảo kê. Tất cả những việc xảy ra đó được một số cán bộ Công an lý giải một cách đơn giản khi tôi hỏi họ tại sao, họ trả lời: 'Tại vì ông Hải. Tại vì ông Hải không biết lượng sức mình, tại vì ông Hải dám nói đến biển đảo, đất liền bị mất trong khi nhà nước chưa nói', v.v."

Ông Nguyễn Văn Hải không phải là người duy nhất đang bị cầm tù vì "dám nói đến biển đảo, đất liền bị mất." Một công dân khác, bà Phạm Thanh Nghiêncũng bị bắt vào ngày 18/09/2008, khi đang tọa kháng tại nhà (với hai khẩu hiệu "Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam" và "Phản Đối Công Hàm Bán Nước 14/09/1958) rồi bị kết án về tội tuyên truyền chống nhà nước XHCN, vì là tác giả của bài viết "Uất Ức – Biển Ta Ơi."

Cùng thời điểm này, liên tiếp trong bốn ngày (6,7,8 và 9) vào tháng mười năm 2009, nhiều người Việt khác [*] cũng đã bị tuyên án chỉ vì họ đã kêu gọi sự bảo toàn lãnh hải, và tuyên xưng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam bằng biểu ngữ.

Bút Ký của nhà báo Nguyễn Thượng Long, đọc được trên Dân Luận vào ngày 7 tháng 7 năm 2011, có đoạn:

"Hành xử như thế với những người dân biểu lộ lòng yêu nước một cách ôn hoà, họ đã chính thức phủ nhận vai trò của nhân dân, chính thức khai trừ nhân dân ra khỏi các yếu tố được gọi là tiềm năng, là nguồn lực để bảo vệ đất nước…"

"Hành xử như thế" thì giữ ghế (e) cũng không xong, chứ mong chi giữ nước.

Tưởng Năng Tiến

[*] Những người Việt khác bị tuyên án vì đã kêu gọi bảo toàn lãnh hải và tuyên xưng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam bằng biểu ngữ:

1. Trần Đức Thạch: 3 năm tù và 3 năm quản chế.
2. Vũ Hùng: 3 năm tù và 3 năm quản chế.
3. Phạm Văn Trội: 4 năm tù và 4 năm quản chế.
4. Nguyễn Xuân Nghĩa: 6 năm tù và 3 năm quản chế.
5. Ngô Quỳnh: 3 năm tù và 3 năm quản chế.
6. Nguyễn Văn Tính: 3 năm 6 tháng tù và 3 năm quản chế.
7. Nguyễn Văn Túc bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế.
8. Nguyễn Mạnh Sơn bị kết án 3 năm 6 tháng tù và 3 năm quản chế.
9. Nguyễn Kim Nhàn bị kết án 2 năm tù và 2 năm quản chế. Ông Nhàn được phóng thích vào tháng 1 năm 2011 và bị bắt lại vào tháng 6 năm 2011.

8
0
 
Rate This

Tù nhân chính trị không phải là người!


Tin ông Nguyễn Văn Trại, một tù nhân chính trị đang phải thọ bản án 15 năm tù đã chết trong nhà tù trại Z30A vào lúc 10.30g sáng ngày Thứ Hai 11/07/2011, đã gây xúc động đến nhiều người trong và ngoài nước, bởi vì ông Trại đã chết trong tình trạng bị bệnh ngặt nghèo, trong khi chỉ còn chưa đầy 5 tháng nữa là mãn hạn 15 năm tù vào ngày 28/11/2011.

Có lẽ nếu không có những tấm hình "biết nói" về tấm thân tàn tạ của ông Trại được chụp tại bệnh viện Biên Hòa cách đây 1 tuần, thì chẳng ai có thể hình dung ra được tại sao ông Trại chết, và chết trong hoàn cảnh nào.

Được biết ông Nguyễn Văn Trại là thành viên Đảng Nhân Dân Hành Động, từng hoạt động chung nhóm với các ông cựu Đại Úy VNCH Nguyễn Anh Hảo (được thả về sau khi mãn hạn tù cách nay một năm), ông Nguyễn TuấnNam(tức Bảo Giang) và ông Lê Văn Tính. Họ đều bị bắt tại biên giới Campuchia – Thái Lan ngày 28/11/1996 sau khi trên đường công tác từ Thái trở về. Tổng cộng có 19 người của nhóm này bị bắt trong 2 đợt. Họ được giải giao về ViệtNam, trước tiên bị giam tại trại B34 (Nguyễn Văn Cừ) một năm, rồi một năm tiếp theo tại trại giam Chí Hòa và gần một năm tại An Giang. Tất cả đều bị đem ra xử kín trong cùng một phiên tòa tại An Giang vào tháng 9 năm 1999. Tại phiên tòa này, cả nhóm 19 người không có ai nhận tội, mà chỉ xác quyết lại "tội trạng" của mình chỉ là "đòi hỏi tự do dân chủ thông qua con đường đấu tranh bất bạo động".

Theo như lời của cựu tù nhân Nguyễn Bắc Truyển, một bạn tù với ông Trại cho biết rằng ông Trại bắt đầu phát bệnh từ tháng 5 năm 2010. Tuy nhiên do chế độ lao tù cộng sản hà khắc đối với tù nhân chính trị, tình hình sức khỏe của ông Trại không được chiếu cố. Mãi đến gần đây, sau khi sức khỏe của ông Trại sút giảm nghiêm trọng và sau nhiều lần do gia đình yêu cầu, ban quản lý trại giam mới miễn cưỡng đưa ông Trại ra bệnh viện bên ngoài để chữa trị. Đợt chữa trị lần thứ hai vào đầu tháng 7 này và cũng là lần cuối cùng là ban quản lý trại tù đưa ông Trại ra bệnh viện Biên Hòa nằm chữa trị. Bệnh viện Biên Hòa tuy cho biết là bệnh tình của ông Trại đã ở vào giai đoạn cuối, hết phương cứu chữa, nhưng cũng có ý muốn lưu giữ ông lại nằm điều trị tại bệnh viện cho đến ngày qua đời, mà ít nhất là ông cũng được ra đi trong vòng tay chăm sóc của người thân.

Tuy nhiên, sau khi thấy tình hình sức khỏe bi đát của ông Trại và biết bệnh viện không thể chữa trị được căn bệnh của ông đang vào giai đoạn cuối, ban quản lý trại giam vì lo ngại bằng hữu đến thăm viếng ông, và cũng vì không muốn để ông lại bệnh viện bên cạnh người thân, nên đã quyết định đưa ông về lại trại giam vào lúc 5g chiều ngày chủ nhật 10/07. Đến 10.30g sáng hôm sau Thứ Hai 11/07 thì ông Trại qua đời trong trại giam Z30A.

Những ngày cuối cùng nằm điều trị tại bệnh viện Biên Hòa, ông muốn gặp thầy Thiện Minh để được nhắn nhủ những lời trăn trối cuối cùng. Bên giường bệnh, cầm tay thầy Thiện Minh, ông thều thào trong hơi thở đứt quãng, yếu ớt: "Tôi biết mình không còn sống được bao lâu nữa, để được thấy rồi đây Việt Nam cũng sẽ có dân chủ,… Tôi cũng mong được chết bên cạnh người thân,…".

Nhưng đau đớn thay ước nguyện "mong được chết bên cạnh người thân" của ông cũng không được toại nguyện. Gia đình xin trại tù cho đem thi hài ông về an táng tại quê nhà, nhưng cũng đã bị ban quản lý trại tù từ chối chỉ vì ông "NGUYỄN VĂN TRẠI LÀ MỘT TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI".

Thế đấy người tù chính trị tại Việt Namđược xem là kẻ thù của chế độ, phải bị trừ khử, loại bỏ không thương tiếc. Một ông lão ốm yếu Nguyễn Văn Trại trước khi chết, và sau khi chết rồi có còn "Khả Năng Lật Đổ Chính Quyền Nhân Dân" không nhỉ? Như vậy giữa cái chết của một người tù chính trị và một con chó chỉ khác nhau ở chỗ là một cái hòm gỗ mà thôi! Tuy đã chết rồi nhưng thân xác ông Trại cũng không thoát khỏi bản án tù, bởi vì giờ đây ông phải nằm trong lòng đất lạnh của khu mộ chôn cất những tù nhân qua đời, cũng thuộc khuôn viên trại tù Z30A.

Được biết trại giam VC có một thông lệ đối với việc chôn cất những tù nhân chính trị chết trước khi mãn hạn tù là giám thị trại giam đọc một "lệnh ân xá" trước nấm mồ. Như vậy, trường hợp của tù nhân chính trị Nguyễn Văn Trại cũng không ngoại lệ. Nằm dưới ba tấc đất ông đã được ban quản lý trại giam đọc "lệnh ân xá", để ông không phải tiếp tục … ngồi 5 tháng tù còn lại trên dương thế!

Đọc lệnh "ân xá" bên nấm mộ ông Trại, nhưng lại tiếp tục giam nhốt hình hài của ông mãi mãi trong khuôn viên nhà tù Z30A. Bất nhẫn như thế thì còn từ ngữ nào để diễn tả nữa đây?

Quả thật là dưới chế độ CSVN hiện nay, tù nhân chính trị không được xem là con người bởi vì họ bị chính quyền đối xử còn tệ hơn con vật.

Úc Châu, ngày 14/07/2011

Lê Minh

Ghi chú: Các ông Lê Văn Tính, ông Nguyễn Tuấn Nam (tức Bảo Giang), Bùi Đăng Thủy  và ông Nguyễn Văn Trại thuộc nhóm người lãnh án tù cao nhất, lần lượt theo thứ tự là 20 năm, 19 năm, 18 năm và 15 năm. Nay người có án tù "thấp nhất" là ông Trại chống không nổi bệnh tật đã ra đi, thì không biết những người còn lại có được may mắn sum họp và "được chết bên cạnh người thân" hay không?

Trước tin ông Trại qua đời trong trại giam, bà Vương Thị Viếng, vợ của ông Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam, đã lo lắng cho số phận của chồng mình và bà cũng chỉ có mỗi một mong ước "nhỏ nhoi" là mong sao chồng mình "được thả về sớm một chút, để ông có thể sống bên ngoài trại giam một vài năm trước khi chết".

Bà Viếng cùng chồng là ông Bảo Giang Nguyễn Tuấn Nam đều bị bắt tại biên giới Campuchia ngày 28/11/1996. Tại phiên tòa xử kín ở An Giang tháng 6 năm 1999, trong khi chồng nhận lãnh bản án 19 năm tù thì bà cũng nhận 10 năm tù, và bị đưa về giam tại trại giam nữ Z30D, Xuân Lộc. Năm 2006, sau khi ra tù, bà đã chạy qua Campuchia xin tỵ nạn tại Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ và hiện nay vẫn đang sống vất vưởng trên xứ Chùa Tháp. Tuy được thừa nhận tư cách tỵ nạn, nhưng viễn ảnh được đi định cư vẫn còn xa vời và cuộc sống hiện nay của bà vẫn còn nhiều bất định, khó lường, trong khi chồng vẫn còn khắc khoải trong nhà tù CSVN.

Những tấm ảnh "biết nói" về ông Trại trong những ngày ông nằm hấp hối trên giường tại bệnh viện Biên Hòa – (Nguồn: DCCT Việt Nam)

Ông Nguyễn Bắc Truyển: "Nhìn những bức hình da bọc xương của ông Nguyễn Văn Trại, tôi liên tưởng đến những người tù dưới thời Đức Quốc Xã, thế chiến thứ hai".

6
0
 
Rate This