THÔNG BÁO !

Trang blog diễn đàn đã được dời sang địa chỉ mới http://ptlambao.blogspot.com/ . Vui lòng vào đây để theo dõi tin tức mới và tiện việc ủng hộ. Trang này sẽ lưu giữ những thông tin cũ . Xin cả ơn sự ủng hộ của mọi người

TM Ban Điều Hành Blog

09 December 2012

Người Hà Nội đang mất dần 'nét thanh lịch'



Tình trạng xả rác bậy ra đường, coi hè phố như của mình, nói trống không với người lớn tuổi, chặt chém khách, cân điêu bán thiếu... đang thay thế dần cho lối cư xử nhã nhặn, lịch thiệp vốn có của người Hà Nội.

Tại Hội thảo Xây dựng quy tắc ứng xử sáng 8/12, nhiều chuyên gia bày tỏ thực trạng đáng buồn về hành vi ứng xử thiếu văn hóa của một số người sống ở Hà Nội hiện nay.
Bà Lê Thị Bích Hồng, Phó vụ trưởng Vụ Văn hóa Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương cho rằng, lối cư xử nhã nhặn của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là lối nói xô bồ, tục tĩu, “lệch chuẩn” nhất là giới trẻ. Ngoài đường phố, người ta xả bậy ra đường, vứt rác bừa bãi, coi hè phố như của mình. Chỉ một va chạm nhỏ cũng dễ nổi khùng chửi bới, thậm chí đánh nhau không thương tiếc.
"Ở cơ quan hành chính, người ta hách dịch, hất hàm, nói trống không với khách lớn tuổi", bà Hồng nói.
Văn hóa phục vụ khách hàng đã bị biến đổi, không còn giữ được những nét đẹp vốn có của người Hà Nội xưa. Ngoài bún mắng, cháo chửi là vấn nạn “chặt chém” khách, “đong lừa, cân điêu, bán thiếu”, bán hàng kém chất lượng. Bà Vụ phó dẫn chứng: “Đến các khu di sản như Văn Miếu phải chứng kiến đầu rùa bị mòn nhẵn, người dân vứt rác ra vỉa hè, lấn chiếm vỉa hè buôn bán. Ứng xử của người Hà Nội hiện nay tôi thấy rất buồn, không khỏi đau lòng”.
Cũng theo bà Hồng, Hà Nội không phát triển được du lịch do không trở thành điểm đến thân thiện như Hội An. Người dân Hội An biết bảo tồn và gìn giữ những nét văn hóa, ứng xử thân thiện với du khách và họ đã được hưởng lợi từ du lịch.
Bà
Bà Lê Thị Bích Hồng. Ảnh: ĐL
Đồng quan điểm, ông Trương Mạnh Tiến, chuyên gia Bộ Tài nguyên Môi trường cho rằng, Hà Nội phải tìm lại những tinh hoa, nét đẹp của truyền thống. Vấn đề là phải chọn lọc những cái cần thiết nhất khi ứng xử và bổ sung thêm những nét tinh túy của người thủ đô, đưa ra các nguyên tắc đơn giản mà cộng đồng có thể làm.
Ông Tiến đề xuất, với các hành vi ảnh hưởng đến môi trường như xả rác, phóng uế phải bị xử phạt và có hình thức phạt đánh vào lòng tự trọng. Ví dụ, Singapore có biện pháp xử phạt bằng đòn roi và lao động công ích, thậm chí chúng ta có thể yêu cầu người bị phạt treo biển và đưa lên truyền hình. Tuy nhiên, trên hết, phải làm sao để người dân hiểu và làm theo pháp luật, đi kèm là biện pháp khuyến khích.
Trưởng phòng Văn hóa quận Tây Hồ Vũ Hoài Phương cho rằng, từ xa xưa mỗi làng có hương ước và người dân đều phải tuân theo. Thời nay, cộng đồng dân cư được mở rộng song vẫn phải coi hương ước là nguyên tắc chung và được bổ sung cho phù hợp thời đại. Ở mỗi địa phương, người dân bản địa sẽ quyết định được ý thức của dân vãng lai. Do vậy, hồn cốt người Hà Nội là nét đặc trưng, điều chỉnh ý thức của người dân khác đến thủ đô.
Ông dẫn chứng, phường Quảng An có gần 1.000 hộ dân cho người nước ngoài thuê nhà, nên phải xây dựng nhiều quy tắc ứng xử, như quy định về nuôi chó vì không ai có thể chấp nhận được tình trạng chó thả rông. Hành vi ứng xử tốt có tác động tích cực đến kinh tế xã hội của dân cư toàn phường.
Ông Nguyễn Khắc Lợi: 'Bản quy ước sẽ được lấy ý kiến người dân'. Ảnh: ĐL
Ông Nguyễn Khắc Lợi: "Bản quy ước sẽ được lấy ý kiến người dân". Ảnh: ĐL
Ông Nguyễn Hòa, Trưởng ban tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân, cũng bày tỏ, trong bối cảnh văn hóa Hà Nội đang diễn biến phức tạp và có biểu hiện như “văn hóa bãi bia” thì hệ thống quy tắc ứng xử là rất cần thiết, không thể chậm trễ. Tuy nhiên, không thể chỉ có vài ba cuộc vận động mà phải coi như công việc lâu dài.
“Hệ thống quy tắc ứng xử cần bắt đầu từ gia đình, từ mỗi người lớn. Phải làm cho người dân có lòng tự trọng và biết xấu hổ khi làm những việc xấu. Sống có văn hóa là biết tôn trọng người khác, là ứng xử chân thành, biết chia sẻ và đồng cảm với nỗi đau của đồng loại, biết làm cho chính mình và đồng loại ngày càng lương thiện”, ông Hòa nhận xét.
Theo ông Nguyễn Khắc Lợi, Phó giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các chuyên gia văn hóa, xã hội, cơ quan này sẽ xây dựng Đề án Quy tắc ứng xử trong cơ quan, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và nơi công cộng, nhằm thay đổi hình ảnh người Hà Nội thanh lịch, văn minh. Dự kiến, đề án lấy ý kiến người dân vào cuối năm sau và thí điểm năm 2014.
Đoàn Loan

Tuổi trẻ Việt Nam: hãy tồn tại có trách nhiệm!


Nguyễn Tâm Linh (Danlambao) - Chúng ta những thanh niên của “thế hệ chịu đựng” hôm nay, có thể cam chịu những di sản người đi trước để lại, cam chịu những giọt nước mắt của đồng bào đang rơi trên từng tuyến biên giới quê hương. Chúng ta có thể câm lặng trước nỗi đau những người vợ, người mẹ, người con của người đã lấy máu mình làm cột mốc giữ biển đảo cho Tổ Quốc. Chúng ta có thể chịu đựng, bởi chúng ta là một “thế hệ vứt đi”. Thế nhưng, thế hệ sau của chúng ta có đáng bị như vậy!? Ai có thể cam tâm làm dài hơn sợi dây bó buộc những quyền con người căn bản mà những người đi sau phải được hưởng. Lẽ nào nhìn thế hệ sau của mình như những con cừu được nuôi lớn rồi thịt, vỗ béo cho cường quyền ác bá. Lẽ nào, nhìn thấy trước thảm cảnh của dân tộc nếu rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc, mà vẫn cam tâm câm lặng hay sao?... 

*

Đất nước đang rên siết dưới gót dày kẻ thù ngàn năm phương bắc. biển Đông đang bị quấy đục bởi chiến thuyền đại hán. Ngư dân Việt Nam đang bị lũ cướp biển “hữu nghị” cướp bóc, bắt bớ và giam cầm. Dãi trường sơn hùng vĩ cha ông ta để lại nay đang oằn mình gánh hàng trăm ngàn quân tàu giả danh người lao công, chúng ẩn nấp kỹ để chờ ngày cướp nước. Từ địa đầu Tổ Quốc cho tới tận mũi Cà Mau, ở đâu giặc tàu cũng lũng đoạn, phá hoại nước ta. 

Đại họa mất nước đang cận kề. những hậu duệ Thánh Gióng, mang trong mình dòng máu tiên rồng hãy lắng nghe lời khẩn cầu của núi sông. Hãy hành động có trách nhiệm với tổ quốc, với chúng ta và thế hệ sau của chúng ta. 

Được gì và gieo gì

Sống trong một giai đoạn xã hội mà con người trở nên thực dụng hơn, câu hỏi “sẽ được gì?”chính là câu được dùng nhiều nhất của các bạn trẻ hôm nay. Đi biểu tình chống Trung Quốc sẽ được gì? Biểu tình chống Trung Quốc có khiến chiến hạm của tàu khựa chìm, có làm tàu khựa trả lại biển đảo quê hương hay không? Nếu chìm tôi có được gì không?. Những câu hỏi kiểu vậy cho thấy, dường như rất nhiều người quan tâm đến kết quả trước mắt, quan tâm đến sẽ được gì và mất gì mà quên đi rằng chúng ta hôm nay đã gieo gì vào tương lai. 

Chúng ta, những thanh niên trong thời đại Internet, một cú nhấp chuột sẽ mang đến cả một biển thông tin. Ở trong biển thông tin ấy, đã có ai trong số chúng ta cảm thấy nhói lòng trước thảm cảnh ở Tân Cương Trung Quốc, có ai thấy lồng ngực mình nghèn nghẹn khi chứng kiến những người hóa thân thành ngọn đuốc để đòi tự do ở Tây Tạng. Thấy phẫn uất khi chứng kiến cảnh những kẻ bạo tàn mổ xác học viên Pháp luân công Trung Quốc. Thảm cảnh đó cũng sẽ trở thành tương lai của dân tộc ta khi chúng ta chỉ đòi “được gì” các bạn ạ. 

Chúng ta, những thanh niên đã được giáo dục rằng trong quá khứ, biết bao lần bọn bành trướng phương bắc quyết làm cỏ Tổ Quốc ta. Với mưu đồ đồng hóa dân tộc, chúng đã gây ra những tội ác “Độc ác thay, trúc nam sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay nước đông hải chẳng rửa sạch mùi”. Chúng giết chết đàn ông, thảm diệt nền văn hóa. Lịch sử sẽ lặp lại với dân tộc này thêm lần nữa khi chúng ta chỉ biết “được gì” thưa các bạn. 

Chúng ta, những thanh niên hừng hực sức sống, cảm thấy thế nào khi đồng bào ta, người ngư dân khúc ruột miền Trung đáng tuổi cha tuổi chú, van lạy tên lính Trung Quốc đang cướp thuyền ngay trên vùng biển mà cha ông ta đời đời khai phá. Khi chúng kéo tàu nhỏ, tàu to hè nhau cắt cáp tàu kinh tế Việt Nam ta. Đó chính là hệ quả của việc thế hệ đi trước của chúng ta chỉ quan tâm đến việc sẽ “được gì” đấy các bạn. 

Chúng ta những thanh niên của “thế hệ chịu đựng” hôm nay, có thể cam chịu những di sản người đi trước để lại, cam chịu những giọt nước mắt của đồng bào đang rơi trên từng tuyến biên giới quê hương. Chúng ta có thể câm lặng trước nỗi đau những người vợ, người mẹ, người con của người đã lấy máu mình làm cột mốc giữ biển đảo cho Tổ Quốc. Chúng ta có thể chịu đựng, bởi chúng ta là một “thế hệ vứt đi”. Thế nhưng, thế hệ sau của chúng ta có đáng bị như vậy!? Ai có thể cam tâm làm dài hơn sợi dây bó buộc những quyền con người căn bản mà những người đi sau phải được hưởng. Lẽ nào nhìn thế hệ sau của mình như những con cừu được nuôi lớn rồi thịt, vỗ béo cho cường quyền ác bá. Lẽ nào, nhìn thấy trước thảm cảnh của dân tộc nếu rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc, mà vẫn cam tâm câm lặng hay sao? 

Lịch sử đang thúc giục chúng ta hành động, tương lai đang khắc khoải mong ngóng những hành động của chúng ta. Chúng ta hãy gieo vào tương lai những khát vọng về quyền biểu thị ý chí của công dân bằng việc hưởng ứng lời kêu gọi biểu tình bảo vệ biển đảo của quê hương mà các công dân có trách nhiệm khác đã kêu gọi. 

Chúng ta sẽ gieo vào tâm hồn thế hệ sau của chúng ta lòng yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh bảo vệ tổ quốc không gì có thể cản được. Dù đó là bạo lực cường quyền hay tay sai ngoại bang. Ta gieo vào tương lai những dòng chảy của sức mạnh xã hội dân sự khi công khai hòa cùng đồng bào thể hiện quyền được ấn định trong hiến pháp của mình. 

Vì...

Khi sống là tồn tại có trách nhiệm! 

Sống hay chết chỉ là những khái niệm mơ hồ, con người suy cho cùng cũng chỉ là một dạng vật chất. Vật chất thì luôn luôn tồn tại cho dù khác nhau về hình thức tồn tại. Như vậy cuộc sống của con người không có sự sống hay cái chết, chỉ có tồn tại hay tồn tại có trách nhiệm thôi. 

Một con mãnh thú, phải gồng mình chiến đấu chống lại các loài thú dữ khác. Để bảo vệ lãnh địa, săn mồi, để có những dòng sữa hoặc thức ăn cho con của nó. Đó chính là một sự tồn tại có trách nhiệm với thế hệ sau trực tiếp của con thú ấy. 

Điểm khác biệt giữa con người với động vật đó chính là trách nhiệm về thế hệ sau gián tiếp, với đồng loại mình, đồng bào mình, dân tộc mình và hơn nữa là quốc gia và cả xã hội loài người đang sống. Một con thú để có sữa cho con bú hoặc thức ăn cho con, nó có thể tấn công ngay đồng loại của mình. Mặc cho đồng loại và thế hệ sau gián tiếp là con của đồng loại nó bị chết. 

Nhưng đối với con người chúng ta khi sống trong những cộng đồng, quốc gia, chúng ta phải có trách nhiệm đối với thế hệ sau gián tiếp cho dù khác biệt về dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ. Để cho thế hệ sau dù trực tiếp hay gián tiếp của mình được sống no đủ, được hưởng các quyền tự do dân chủ và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nếu như chúng ta những thế hệ đi trước, tước đi của thế hệ sau những quyền cơ bản của con người đó, thì sự sống đang xuyên suốt trong các thế hệ chỉ là sự tồn tại đơn thuần của tự nhiên, sự tồn tại theo kiểu “vật tự nó”. 

Chúng ta! Những thanh niên hôm nay, đứng trước vận mệnh của dân tộc, không lẽ chọn cách làm con rùa rụt cổ, khư khư giữ chặt những mỗi lợi cỏn con cho thế hệ sau trực tiếp của mình, để cho đồng bào, thế hệ sau của cả dân tộc chịu những thảm cảnh đau thương mà quân xâm lược phương bắc chắc chắn sẽ mang tới? 

Nên nhớ rằng được sinh ra trong dạng sống mang tên con người là niềm hạnh phúc lớn lao với bất kì ai, nhưng được hưởng trọn nền độc lập tự do, hưởng trọn quyền con người là hạnh phúc còn lớn hơn gấp vạn lần. Để tất cả thế hệ sau của mình có được niềm hạnh phúc đó, tương lai yêu cầu chúng ta hôm nay gieo lên những hành động có trách nhiệm. Còn không, những cái lợi trước mắt, những hành vi hèn nhát ngày hôm nay sẽ biến thành những sợi xích trong nay mai để siết chặt chính thế hệ này mà chẳng cần chờ lâu. Vì thế, chúng ta cần có lựa chọn cho mình sự tồn tại chính xác, đặt sự tồn tại của mình vào sự tồn tại chung của dân tộc. 

Còn nhớ trong một ngàn năm phong kiến bắc thuộc, các triều đình phong kiến phương bắc âm mưu đồng hóa giống nòi nước nam, tận diệt văn hóa người Việt. Dù vậy, văn hóa Việt dù ít nhiều bị ảnh hưởng nhưng vẫn trường tồn, lãnh thổ Việt vẫn bền vững. Rõ ràng người đi trước đã hoàn thành trách nhiệm đối với người sau trong suốt cả ngàn năm ấy. Họ đã cho con cháu của mình, những thế hệ sau được biết về thân phận, được biết về nỗi đau của dân mất nước, được cảm nhận văn hóa dân tộc qua những lời ru à ơi của mẹ hay qua câu chuyện cổ tích của bà. Là dùng chính xương máu mình tạo nền tảng cho ngày dành độc lập. Như thế người xưa đã sống, đã tồn tại có trách nhiệm và bất tử trong chúng ta hôm nay. 

Tinh thần trách nhiệm xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, hôm nay sẽ được chúng ta tiếp nối ra sao? 

Thế hệ sau của chúng ta sẽ tồn tại là con người đúng nghĩa? Được làm chủ một quốc gia độc lập vẹn toàn? Hay thuần túy tồn tại chỉ để tồn tại mà thôi? 

Liệu chúng ta có thể nhìn thế hệ sau của mình bị bó buộc, bị giam hãm, bị vỗ béo để phục vụ cho lợi ích của một sự tồn tại khác. Để cho thế hệ sau của mình sống trong thời đại của những kẻ mượn danh công lý, mượn danh chiến đấu vì tự do dân chủ tước bỏ quyền làm người và quyền được hưởng những quyền cơ bản của con người. 

Câu trả lời nằm ở chính hành động của chúng ta hôm nay! 


Luận về lòng tự trọng !



Jeffrey Thái (Danlambao) - Tự trọng, nói một cách ngắn gọn nhất, có nghĩa là tôn trọng chính bản thân mình. Định nghĩa rõ hơn, lòng tự trọng là phẩm chất giúp con người nhận thức được giá trị của bản thân mình (về năng lực, tính cách, niềm tin...), trong mối tương quan với các cá thể khác trong xã hội.

Xã hội loài người vốn được cấu trúc theo dạng hợp quần, trong đó các cá thể luôn có những tác động trực tiếp vào nhau, đôi khi hỗ trợ, đôi khi đối kháng. Việc nhận thức được giá trị của bản thân, thông qua lòng tự trọng, giúp các cá thể tồn tại và phát triển vững vàng, vượt qua được các mâu thuẫn đối kháng thường xuyên nảy sinh trong quá trình sống hợp quần đó. Bên cạnh đó, lòng tự trọng cũng đóng vai trò như một rào cản đạo đức cơ bản nhất, giúp con người soi rọi lại giá trị nhân bản của bản thân, và qua đó, mỗi cá thể góp phần hỗ trợ cho sự sống của các cá thể khác và, nói chung, sự phát triển tốt đẹp của toàn xã hội. 

Trong phạm vi bài viết này, người viết xin được bàn về lòng tự trọng ở khía cạnh thứ hai, tức là nghiêng về phương diện đạo đức nhiều hơn. Xin được nói về nó, trước hết, ở phạm vi cá nhân, và sau đó, ở một bình diện khác cao hơn - bình diện quốc gia. 

Điều trước tiên cần xác định là lòng tự trọng là một sản phẩm của ý thức, và do đó, chỉ có con người mới có lòng tự trọng (vì con người là động vật duy nhất có ý thức phát triển hoàn chỉnh). Với đặc tính đó, vô hình trung, lòng tự trọng chính là thước đo giá trị nhân bản của con người, giúp phân biệt giữa con người và các loài động vật khác. Một lòng tự trọng ít nhiều khiếm khuyết, hao hụt là dấu hiệu cho thấy sự suy thoái đạo đức đang diễn ra ở một con người. Và khi một con người (được cho là) hoàn toàn không còn có lòng tự trọng nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là, giá trị nhân bản của con người đó đã bị phủ nhận: cá thể đó chỉ còn đơn thuần tồn tại như một động vật. Trong xã hội loài người, những con người - động vật như thế không thể hòa hợp với các cá thể khác và chẳng thể có được một đời sống tốt đẹp. 

Có một điều mà người viết tự nhận thấy, qua kinh nghiệm sống cá nhân, là: Ở xã hội của các nước phát triển (như các nước phương Tây), lòng tự trọng (self-esteem hay self-respect) thường được đề cập đến nhiều hơn (ở khía cạnh thứ nhất) như là khả năng nhận chân ra được các giá trị hữu dụng của bản thân, và từ đó, có phương hướng phát triển cá nhân thích hợp. Việc nhận chân đó, đi kèm với sự phát triển, giúp con người có được niềm tin (trust) ở chính bản thân mình, và đồng thời, gieo được niềm tin về mình nơi người khác. Do đó, để lên án một con người nào đó đã những hành động hay hành vi ứng xử vô đạo đức, đi ngược lại các nguyên tắc đạo lý chung, người ta thường hay nói "Tôi không tin anh nữa" (I don't trust you any more). 

Trong khi đó, ở các nước kém phát triển hơn (như các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam), trong những trường hợp như thế thì chúng ta lại có thói quen viện dẫn đến lòng tự trọng nhiều hơn, đại khái như: "Bạn còn lòng tự trọng không mà lại hành xử như thế?" Câu hỏi này vừa như một lời cáo buộc, phán xét, vừa như một lời nhắc nhở, khiển trách, tùy trường hợp. Ở đây, dường như chúng ta trông cậy nhiều hơn vào sự tự ý thức (hay vào lương tâm) của cá nhân người đó. Do đó, khi chúng ta cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng về ý thức, về lương tâm nơi người đó, thì chúng ta thường buông lời phán quyết cuối cùng là: "Bạn là một con người hoàn toàn không còn lòng tự trọng nữa". Sau lời cuối đó, hiếm khi nào chúng ta còn nghĩ, hay nói, hay có bất cứ một mối liên hệ nào với con người như thế. 

Để giải thích cho sự khác biệt đó trong cách phản ứng, tôi cho rằng nó xuất phát từ sự khác biệt về xã hội. Ở những xã hội văn minh hơn, thường con người ta mặc nhiên trao niềm tin cho nhau. Con người luôn được mặc định là vô tội, cho đến khi nào có đầy đủ chứng cớ pháp lý để kết tội. Chính vì mặc định về niềm tin đó mà khi bị hụt hẫng, cái mà người ta cảm thấy mất mát chính là niềm tin. Trong khi đó, ở những xã hội kém văn minh hơn, hay những xã hội mà con người vốn đã chẳng thể tin nhau, thì vấn đề lại không phải là niềm tin - cái vốn đã không có, mà lại là lương tâm, là ý thức. Họ chỉ còn biết đánh động vào lương tri con người như một cứu cánh sau cùng. Nói là cứu cánh sau cùng vì ở những xã hội như thế, thường thì luật pháp cũng khá lỏng lẻo, con người chẳng dám trông chờ.

Xét cụ thể vào cuộc sống xã hội của người dân Việt, chúng ta dễ dàng thấy là lòng tự trọng là một khái niệm thật phổ biến, với những đặc thù rất riêng mang tính dân tộc. Câu hỏi được đặt ra là: Sống như thế nào thì được xem là tự trọng? Đây là một câu hỏi mở, có rất nhiều đáp án khác nhau, tùy theo điều mà bạn đang muốn mổ xẻ. Cá nhân tôi xin được trình bày ở đây một đáp án mang tính khái quát lớn. 

Đáp án đó chính là nguyên tắc: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", dịch ra tiếng Việt là "Những gì mình không muốn, thì đừng làm cho người khác". Đây là câu nói cổ xưa của Đức Khổng Tử mà rất nhiều người biết. Riêng tôi đã có dịp đọc nó từ ngày còn rất nhỏ, vì nó được in trên lịch (ngày) treo tường. Cũng cùng một ý nghĩa như thế, người Mỹ có câu: "Treat others the way you want to be treated", dịch ra là, muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì hãy đối xử với họ đúng như thế. Đây là câu nói mà đa số người Mỹ dùng rất thường xuyên trong đời sống hằng ngày. 

Câu nói của Đức Khổng Tử thoạt nghe có vẻ đơn sơ, nhưng lại hàm chứa một triết lý sống lớn. Nó thể hiện được lòng tự trọng của con người, và nêu lên được mối tương quan nên có và cần có trong mối liên hệ con người. Hãy xét xem: Không ai muốn đau khổ hay nghèo khó cả, phải không? Thế thì đừng gây đau khổ và đừng làm cho người khác đói nghèo. Không ai muốn mình bị xúc phạm hay thóa mạ cả, phải không? Thế thì đừng bao giờ xúc phạm hay thóa mạ người khác. Không ai muốn tính mạng mình bị đe dọa, hay mình bị ngược đãi cả, phải không? Thế thì đừng đe dọa và ngược đãi người khác... Thực hiện đúng nguyên tắc đó thôi, chúng ta sẽ có được một đời sống tự trọng và xã hội sẽ trở thành một nơi chốn bình an. Đó là một sự tự trọng đúng nghĩa được dựa trên cơ sở tôn trọng (quyền lợi, nhân phẩm và tính mạng của) người khác. 

Tiếc thay, nguyên tắc nghe dễ thế, mà con người vốn vô minh nên không phải ai cũng nhớ, cũng làm. Xâm phạm nguyên tắc đó chính là nguyên nhân lớn nhất làm lòng tự trọng của con người bị tổn hại và phá hủy. Phần lớn con người đều quên hay không ý thức được mối tương quan giữa mình và các cá thể khác. Họ chỉ muốn mình tồn tại, phát triển và thịnh vượng, mà không hề màng đến sự tồn tại, thịnh vượng và phát triển của người khác. Điều đó không chỉ phá hoại các riềng mối xã hội, mà còn làm cho sự phát triển chung của toàn xã hội trở nên mất cân đối và chông chênh. 

Chúng ta vừa bàn đến lòng tự trọng ở những người dân thường. Bây giờ hãy xét đến lòng tự trọng ở những con người có chức trách cao hơn - những con người lãnh đạo xã hội. Nếu lòng tự trọng ở một người dân thường chỉ quan trọng một, thì ở những người có chức quyền, nó quan trọng và có sức ảnh hưởng hay tàn phá nhiều lần hơn. Chức quyền càng lớn, sức ảnh hưởng và tàn phá càng ghê gớm. 

Trong học thuyết chính trị của mình cách đây hàng nghìn năm, Đức Khổng Tử đã có nêu lên những đòi hỏi căn bản của ông về người cầm quyền như sau: Người cầm quyền nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm. Nếu xét kỹ thì ta sẽ thấy rằng ba cái "nên" mà ông nêu ra đó đều xoay quanh lòng tự trọng, cũng như xoay quanh nguyên tắc sống tự trọng (cũng của chính ông) mà chúng ta vừa xét đến ở trên. Theo đó, ta thấy, chung qui, điều đòi hỏi cơ bản và thiết yếu nhất ở một người cầm quyền chính là lòng tự trọng. Một người cầm quyền có lòng tự trọng hẳn sẽ biết thương yêu và quan tâm đến người dân của mình, biết đặt quyền lợi của người dân đen lên trên hết.

Nhìn vào xã hội VN hiện nay, chúng ta thấy điều gì đang diễn ra? Chúng ta thấy có hàng ngàn dân đen ngày đêm kêu oan cho những mảnh đất, mà họ cho là gần như bị cướp trắng. (Điều đó nói lên họ đã không được quan tâm và thương yêu). Chúng ta thấy nạn tham nhũng hoành hành trên diện rộng trên toàn đất nước, đưa VN xuống hàng thứ 123 trong tổng số 176 quốc gia, trên bảng xếp hạng tham nhũng thế giới năm nay của tổ chức TI (Transparency International). (Điều đó cho thấy có nhiều các viên chức cầm quyền đã từ lâu không còn nghĩ đến việc làm gương cho ai cả). Và rồi, chúng ta thấy dư luận quần chúng đang mải bàn tán xôn xao về văn hóa... từ chức. (Dân chúng muốn các nhà cầm quyền từ chức vì họ đã không chịu học cách để tự kỷ luật mình). 

Điểm qua những điều đó, và đối chiếu với những đòi hỏi cơ bản của Đức Khổng Tử về người cầm quyền, chúng ta có thể rút ra một kết luận hoàn toàn khả tín là: Chúng ta đang có rất nhiều những người cầm quyền không có lòng... tự trọng. Việc thiếu vắng lòng tự trọng ở các vị này gây một sự ngạc nhiên lớn. Người ta ngạc nhiên là vì một con người bình thường không có lòng tự trọng đã là một điều rất đáng xấu hổ. Một người có trách nhiệm lớn với xã hội, với người dân mà lại không có lòng tự trọng thì chắc hẳn họ không còn biết xấu hổ là gì nữa. Người dân cứ thế mà cảm thấy bẽ bàng thêm. 

Một câu hỏi gây chấn động lớn, xuất phát từ thực trạng đó, chính là: 

Khi một xã hội được cầm quyền bởi một lượng lớn những người không có lòng tự trọng, thì còn có thể sót lại một khoảng trống nhỏ nhoi nào trong đời sống xã hội, để lòng tự trọng của người dân có chỗ để sống còn hay không? 

Một xã hội mà lòng tự trọng - rào cản đạo đức cơ bản của con người - không còn có chỗ sống sót thì tương lai của nó sẽ như thế nào là một điều không khó đoán. Đó là điều mà những người có lòng với dân tộc, với đất nước chắc hẳn không khỏi phải day dứt với chính mình.

08/12/2012

Jeffrey Thái

Quành tráng!



CTV Danlambao - Đó là tượng nam thần mất tự do sẽ được khánh thành vào ngày mai (09/12/2012) ở Pleiku, Cao nguyên của Việt Nam.


Bức tượng trị giá cỡ… ngàn tỷ đồng, được đúc bằng đồng nguyên chất nhập khẩu về từ các nước tư bản dãy chết.


Dàn đại cồng chiêng hai bên tượng đài cũng tiêu tốn một lượng đồng không kém lượng đồng dùng để đúc tượng nam thần mất tự do.


Dàn đèn đồ sộ được lắp đặt trên cao chuẩn bị cho đêm khánh thành, một lễ hội cũng… quành tráng!


Bức họa phía sau tượng đài cao như núi cũng…quành tráng.


Nơi đặt tượng đài là quảng trường Đại đoàn kết. Quảng trường Đại Đoàn Kết là kết quả đập phá xây lại từ quảng trường 17/03 vừa mới xây dựng xong. Quảng trường chồng lên quảng trường; lãng phí đã chồng lên lãng phí…


Hòn đá bị nhốt trong lồng sắt ở Chư Sê nay được vinh danh đứng trên tượng đài thay vào vị trí tượng đài anh hùng Núp đã đứng nơi đây.


Đã không còn anh hùng Núp của Đất Nước Đứng Lên , nay toàn là anh hèn “núp” của đất nước vì xuống… đít Tàu. Anh hùng Núp năm xưa đã bị phá bỏ tượng đài, còn chăng chỉ là một tấm ảnh triển lãm ở một góc của quãng trường.


Công ty môi trường đô thị dùng xe ben kéo đến nhiều ngôi nhà xanh trước lễ khánh thành, chắc là để cho bọn “thế lực thù địch” nó vào đây khi đang dự buổi lễ.

Ảnh: Mông Cổ hạ tượng Lê Nin cuối cùng. Nguồn: Internet

Với bức tượng quành tráng này, dân Gia lai có lắm người rất vui và mừng, đó là giới kinh doanh ve chai đồng nát, có ngày rồi họ sẽ trúng được mối hời đồng nát, như dân Mông Cổ trúng đồng nát từ bức tượng Lê Nin vừa rồi!

CTV Danlambao